VINATOM – Dự án thế kỷ trên đôi vai

Quyết định trở lại với điện hạt nhân của Việt Nam đã đặt một nhiệm vụ tầm cỡ thế kỷ lên đôi vai những người làm năng lượng nguyên tử. Cách nào để họ thực hiện nhiệm vụ này?

“Những dấu mốc đặc biệt với ngành năng lượng nguyên tử đều đến trong tháng 11”, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (VINATOM), không khỏi trầm ngâm khi nhìn lại những thăng trầm và chuyển động chính sách đối với ngành năng lượng nguyên tử trong vòng gần 15 năm qua. Thật không khó nhận thấy những chuyển động chính sách ấy đều có tác động không nhỏ đến sự phát triển, thậm chí tương lai phía trước của ngành này, từ sự phê duyệt chủ trương đầu tư nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận của Quốc hội (Nghị quyết 41 ngày 25/11/2009), Hiệp định liên Chính phủ cấp tài chính cho Ninh Thuận 1 và Hiệp định liên Chính phủ xây dựng Trung tâm KH&CN hạt nhân Quốc gia (ngày 21/11/2011); Quốc hội dừng Dự án Ninh Thuận (Nghị quyết 31 ngày 23/11/2016)… đến Nghị quyết kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa 15 tiếp tục Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận (ngày 30/11/2024)…

Chuyển động chính sách mới khiến cho cụm từ “điện hạt nhân”, “nhà máy điện hạt nhân” được nhắc đến rộn ràng rộng khắp bởi không còn trong vòng cấm kỵ hoặc bị coi là viển vông. Với người ngoài, sự trở lại này có cái gì đó gần như bất ngờ nhưng với những người làm trong ngành năng lượng nguyên tử, niềm tin về một thứ công nghệ đã được chứng thực sức mạnh cả bảy chục năm cũng như xu hướng phục hưng gần thập kỷ qua khiến họ vẫn coi việc quay trở lại với điện hạt nhân của Việt Nam chỉ còn vấn đề thời gian.

Và giờ đây, khi Việt Nam trở lại với điện hạt nhân, sau tám năm tạm dừng, thì nhiệm vụ trăm năm đã được đặt trở lại với ngành năng lượng nguyên tử.

Giáo sư Boris Sharkov (thứ ba từ phải sang) và Giám đốc PTN Vật lý neutron Frank Valery Shvetsov (ngoài cùng bên trái) trao đổi về dự án Trung tâm KH&CN hạt nhân Quốc gia với TS. Trần Chí Thành vào tháng 12/2022.

Những thăng trầm thời gian

“Còn nhớ phòng điện nguyên tử đã được hình thành từ những năm 1980, khi đó chúng tôi đã tham gia vào quá trình tìm địa điểm bởi theo dự kiến của GS. Nguyễn Đình Tứ, năm 2000 chúng ta sẽ có điện hạt nhân. Sau đó, chúng ta đã bỏ qua đề án này để tập trung vào quá trình phát triển kinh tế. Các mốc có điện hạt nhân được dời lại vào các năm 2020, rồi năm 2030 và hôm nay thì có thể là 2040”, PGS. Nguyễn Nhị Điền, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, chia sẻ nhân điểm mới chính sách tác động lên ngành năng lượng nguyên tử trong lễ tổng kết hoạt động năm 2024 của VINATOM.

Không đơn thuần là cái hoài niệm của người “ăn cơm mới, nói chuyện cũ” mà là từ cái tâm thế của người đã dự phần vào nỗ lực hàng thập niên của ngành năng lượng nguyên tử, ông điểm lại những nỗ lực quá khứ “Trước đây, Thủ tướng Phan Văn Khải đã lập tổ tư vấn điện hạt nhân, trong đó có nhiều người ngồi ở đây tham gia rất tích cực. Sau đấy khi chương trình điện hạt nhân được phê duyệt vào năm 2010, thì chúng ta tham gia tiền khả thi vào năm 2010, chúng ta tham gia rất nhiều vào các hội đồng, tham gia chọn địa điểm. Từ năm 2010 đến nay, cả ngành năng lượng nguyên tử có khoảng 30 đề tài nghiên cứu cấp nhà nước, cấp bộ liên quan đến công nghệ hạt nhân, phân tích an toàn… Chính từ các nghiên cứu ấy mà chúng ta có tiếng nói trong lựa chọn công nghệ cho Ninh Thuận 1”.

Có lẽ, do không thấu được những nội tình chuẩn bị của ngành năng lượng nguyên tử nên đây đó từng có ý kiến cho rằng phát triển hạt nhân ở Việt Nam còn vội vàng, chưa xét đến các khía cạnh an toàn của công nghệ và chưa tính đến bối cảnh năng lượng tái tạo bùng nổ. Giờ thì thời gian đã cho câu trả lời. “Chúng ta đã có bước tiến quan trọng, đó là việc hợp tác với Nga xây dựng Trung tâm KH&CN hạt nhân, tìm địa điểm, làm việc với các địa phương, chốt được các phương án, Nga và Nhật Bản đã hoàn thành báo cáo tiền khả thi cho các nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận”, TS. Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN, nói. Quan sát các chuyển động của ngành năng lượng nguyên tử ngay cả khi không còn là người đứng đầu Bộ, ông nhận xét “Tôi rất mừng là Viện chúng ta vẫn lặng lẽ chuẩn bị củng cố đội ngũ và sẵn sàng cho việc chúng ta có thể tham gia dự án điện hạt nhân khi được tái khởi động. Tôi thấy rõ là trong nhiều năm qua, cụ thể là năm vừa rồi, chúng ta đã làm rất nhiều công việc chuẩn bị cho ngày chúng ta quay trở lại điện hạt nhân”. Điều này cũng trùng khớp với cái nhìn của Phó Đại sứ Ishikawa Isamu, Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, “Thời gian qua, VINATOM đã dành nhiều tâm huyết và nỗ lực nghiên cứu về năng lượng hạt nhân, cũng như chứng minh sự cần thiết phải có điện hạt nhân tại Việt Nam. Nỗ lực này đã đóng vai trò nền tảng để tái khởi động và thúc đẩy triển khai các dự án điện hạt nhân”.

Việc lặng lẽ chuẩn bị trong bối cảnh gần như không có chương trình đào tạo nhân lực cho ngày quay trở lại với điện hạt nhân thực ra là một thách thức lớn với VINATOM. PGS. Nhị Điền nhớ lại những nỗ lực theo dòng chảy thời gian, “những việc chúng ta vẫn làm âm thầm như cách nguyên Bộ trưởng Nguyễn Quân nói. Dù đã dừng điện hạt nhân từ năm 2016 nhưng đến giờ vẫn có những đề tài về điện hạt nhân, công nghệ hạt nhân, thậm chí cả công nghệ lò phản ứng mô đun nhỏ (SMR). Có thể nói là chúng ta vẫn giữ được sự liên tục” – một sự liên tục cần thiết trước sự trở lại đột ngột của một chính sách mới.

Cũng phải thấy rằng, trong quá khứ, sự thay đổi của chính sách không chỉ diễn ra với riêng ngành năng lượng nguyên tử mà còn với những lĩnh vực khác. Tuy nhiên, năng lượng nguyên tử vẫn chịu nhiều thiệt thòi bởi những mất mát của một ngành có độ khó, độ phức tạp và đòi hỏi thời gian tích lũy tri thức thì khó lòng được bù đắp nguyên vẹn. Hơn ai hết, năng lượng nguyên tử cần những chính sách ổn định và bền vững. TS. Hoàng Văn Sính, một cán bộ của VINATOM và sau là IAEA (Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế), giải thích vì sao cần sự cam kết chính sách để làm điện hạt nhân “Tuổi đời thế hệ nhà máy thế hệ 3+ là 60 năm, gia hạn 20 năm nữa là 80 năm, 20 năm tháo dỡ khi dừng hoạt động. Như vậy, nếu làm điện hạt nhân thì phải cam kết 100 năm trở lên, không thể nửa vời.

Mong mỏi của một chuyên gia từng chứng kiến những thăng trầm trong phát hiện điện hạt nhân không chỉ Việt Nam mà nhiều quốc gia khác trên thế giới đã quy tụ trong một đề xuất “Lần khởi động lại này phải bài bản, chắc chắn, vững chãi và minh bạch hơn. Không thể cứ làm đi, dăm năm lại tắc thì không chỉ vật chất, mà còn tai hại hơn là mất đà động lực và nhất là mất mát nguồn nhân lực.

Thời gian qua, VINATOM đã dành nhiều tâm huyết và nỗ lực nghiên cứu về năng lượng hạt nhân, cũng như chứng minh sự cần thiết phải có điện hạt nhân tại Việt Nam. Nỗ lực này đã đóng vai trò nền tảng để tái khởi động và thúc đẩy triển khai các dự án điện hạt nhân.

Phó Đại sứ Ishikawa Isamu, Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam

Cần các quyết sách dài hạn

Thế bế tắc của ngành năng lượng nguyên tử đã được khơi thông bằng một quyết sách về điện hạt nhân. Và thế là đột nhiên, người ta thấy vẻ đẹp của một thứ công nghệ hiện đại và cái cần thiết của nó trong bù đắp nhu cầu năng lượng tương lai, điều mà trước đây, những người làm khoa học sẵn sàng trao đổi nhưng không mấy được lắng nghe.

Giờ đây, những người làm năng lượng nguyên tử đứng trước một cơ hội mới mà sự dài hạn của nó không gói gọn trong một thế hệ những người tham gia như nhiều công nghệ khác, “nó đòi hỏi nỗ lực của nhiều thế hệ các nhà lãnh đạo và người làm nghiên cứu khoa học trong một quá trình dài và liên tục, bền bỉ để có được sự thành công và có đóng góp cho sự phát triển của kinh tế xã hội đất nước” như nhận định của TS. Trần Chí Thành. Dù việc trở lại với điện hạt nhân là một cơ hội tốt nhưng lại đặt ra một thách thức rất lớn cho ngành năng lượng nguyên tử. Bởi “việc có thể thực hiện tốt chương trình phát triển điện hạt nhân hay không đòi hỏi một đội ngũ cán bộ nghiên cứu, quản lý hùng mạnh, năng lực công nghiệp hỗ trợ tốt trong việc đảm bảo chất lượng, trong việc triển khai vận hành an toàn nhà máy điện hạt nhân”, ông nói.

Bằng cái nhìn bao quát của một chuyên gia giàu kinh nghiệm, từng tham gia tính toán an toàn hạt nhân cho các nhà máy ở Thụy Điển cũng như thị sát hoạt động của các nhà máy điện hạt nhân ở nhiều quốc gia khác nhau, TS. Trần Chí Thành cho rằng, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của ngành năng lượng nguyên tử lúc này là nghiên cứu công nghệ hạt nhân và an toàn hạt nhân. Đó sẽ là năng lực để Viện có thể tư vấn, hỗ trợ cho chính phủ và các chủ đầu tư khi quay trở lại chương trình hạt nhân, lựa chọn công nghệ phù hợp với dự án Ninh Thuận. Quan trọng hơn nữa, theo nhận định của ông “Trong giai đoạn tiếp theo, triển khai xây dựng các nhà máy điện hạt nhân, đòi hỏi Việt Nam phải có đội ngũ chuyên gia giỏi trong nhiều lĩnh vực, đồng thời xây dựng được một chương trình quốc gia nghiên cứu hỗ trợ đảm bảo an toàn trong điều kiện Việt Nam, nâng cao năng lực nội địa hóa, sản xuất các thiết bị trong nhà máy điện hạt nhân. Nguồn nhân lực luôn luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong đảm bảo sự thành công của điện hạt nhân đối với bất kỳ quốc gia nào”.

Đội ngũ những người làm nghiên cứu hạt nhân trong và ngoài VINATOM đang dần mai một, nhiều người đã đến tuổi nghỉ theo chế độ. Do vậy, TS. Nguyễn Quân tha thiết “Tôi mong muốn VINATOM bảo tồn được đội ngũ quý giá này, hỗ trợ tối đa các nhà khoa học đồng thời đào tạo thế hệ kế cận. Chúng ta cần đào tạo khẩn trương hơn để khi nhà máy điện hạt nhân đi vào hoạt động, chúng ta có một lực lượng chất lượng cao, tâm huyết”. Ông cũng đề xuất ý tưởng mà ông cho là hợp lý “chúng ta cần thu hút được cả các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài và các nhà khoa học nước ngoài đến Việt Nam làm việc”.

Câu chuyện nhân lực hạt nhân ở Việt Nam chưa hẳn đã xuôi chèo. “Mặc dù đã có bước phát triển trong những năm qua nhưng nguồn nhân lực của ngành hạt nhân Việt Nam vẫn còn yếu và thiếu đội ngũ cán bộ đầu đàn”, TS. Trần Chí Thành nêu rõ và phân tích cụ thể “Về công tác đào tạo, trong giai đoạn trước, do các dự án điện hạt nhân đều bị dừng lại, nhiều người trong đội ngũ này đã chuyển sang hướng khác. Vì vậy, để chuẩn bị đội ngũ chuyển sang giai đoạn tiếp theo, chúng ta cần nguồn nhân lực tốt và được đào tạo bài bản thông qua việc đào tạo lại cán bộ theo hướng nâng cao, đào tạo trong nước và ngoài nước với nhiều cấp độ khác nhau, từ cấp đại học đến chuyên gia đầu đàn, đồng thời mở rộng đào tạo sang lĩnh vực khác để phục vụ mục tiêu phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử trong bối cảnh biến đổi khí hậu”.

Việc đào tạo nhân lực R&D sẽ không chỉ diễn ra trong nước mà sẽ còn mở rộng ở những trung tâm quốc tế lớn, nơi có đầy đủ thiết bị và chuyên gia sẵn sàng hướng dẫn. GS. Lê Hồng Khiêm, điều phối viên Chương trình hợp tác Việt Nam – Dubna, cho rằng Viện Liên hợp hạt nhân Dubna là một trong những nơi như thế. “Tôi đã từng làm việc ở Nhật, Đức, Pháp và sau nhiều năm quay lại Dubna, tôi cảm thấy thiết bị và trình độ ở đây hoàn toàn tương tự vậy. Đặc biệt, ở Dubna có rất nhiều hệ thiết bị tối tân, trong đó có những thiết bị mà ở Việt Nam rất ít có điều kiện chạm tới như các máy cyclotron”. Đây là lý do mà ông cho rằng “trong thời gian sắp tới, VINATOM cũng như các nhà khoa học hạt nhân Việt Nam nên có một chương trình thảo luận và đàm phán với Dubna để chúng ta có thể khai thác triệt để các thiết bị ở đó trong đào tạo cán bộ, đặc biệt là cán bộ vật lý hạt nhân ở trình độ cao”. Với một cơ chế tạo “đặc quyền” cho quốc gia thành viên, Dubna khuyến khích họ thực hiện thí nghiệm trên các hệ thiết bị hiện đại sau khi các đề xuất được hội đồng khoa học phê duyệt. “Chỉ khi làm được như thế, chúng ta mới có nguồn nhân lực thực sự. Tôi rất hy vọng VINATOM nghĩ đến chuyện cử người sang đó làm việc để tạo ra được lực lượng của mình”, ông nói.

Việc có được một đội ngũ chuyên gia giỏi không dễ nhưng khi có đội ngũ chuyên gia ấy thì mọi chuyện sẽ trở nên thuận lợi hơn. PGS. Nhị Điền nhận định “Điện hạt nhân, với 19 vấn đề được IAEA đúc rút trong cẩm nang hướng dẫn mà chúng ta vẫn biết, liên quan đến nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau. Tuy chúng ta chỉ dự phần vào bảy, tám vấn đề trong đó nhưng chúng ta có thể làm việc như một mắt xích kết nối, để cho các bên tương tác với nhau một cách đúng đắn”.

Cách đây hơn 30 năm, nhà máy thủy điện Hòa Bình do Liên Xô viện trợ chính thức được khánh thành sau 15 năm xây dựng và tổng chi phí xây dựng 1,5 tỷ USD. Từ đó, “Sông Đà chia ánh sáng đi muôn ngả” với tổng công suất hằng năm 8,6 tỉ KWh. 30 năm sau, Việt Nam lại đứng trước một cơ hội năng lượng khác. Mặc dù con đường tới thành công trong xây dựng và vận hành một nhà máy điện hạt nhân sẽ lắm gian truân và đòi hỏi thời gian không kém nhà máy thủy điện Hòa Bình nhưng điểm thưởng trên đường không chỉ dành cho lĩnh vực năng lượng nguyên tử mà nói như TS. Nguyễn Quân “Tôi cho rằng, năng lượng nguyên tử không chỉ là vấn đề năng lượng, điện hạt nhân không chỉ là điện. Chúng ta làm điện hạt nhân và phát triển năng lượng nguyên tử là để nâng cao trình độ KH&CN của quốc gia. Quốc gia nào mà có nhà máy điện hạt nhân, có đội ngũ cán bộ năng lượng nguyên tử mạnh thì quốc gia đó có một ưu thế hoàn toàn khác so với những quốc gia khác”./.

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt thăm Dubna.
Xây dựng nghị quyết của Bộ Chính trị nhằm thúc đẩy ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình

Những nhiệm vụ trong thời gian tới của VINATOM là:


Nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ hạt nhân, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia đầu ngành, gắn với chương trình phát triển tổng thể năng lượng nguyên tử và công nghệ hạt nhân, từng bước nâng cao năng lực trong nước, nội địa hóa thiết bị hạt nhân, hợp tác với các quốc gia có kinh nghiệm để học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm.

Bên cạnh đó, tăng cường phối hợp với các cơ quan trong nước để tăng cường truyền thông nâng cao hiểu biết của công chúng về điện hạt nhân.


2.Chủ trì đề xuất chương trình nghiên cứu đặc biệt cấp quốc gia tập trung vào an toàn hạt nhân, bao gồm tập trung xây dựng một – hai phòng thí nghiệm quy mô quốc gia nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, tư vấn hỗ trợ kỹ thuật, từng bước làm chủ công nghệ.


Chuẩn bị năng lực để tham gia quá trình chuẩn bị cấp phát vật tư, thiết bị, giám sát dự án và kiểm tra chất lượng, xây dựng năng lực về xử lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng.


3. Phối hợp, hỗ trợ kỹ thuật với cơ quan quản lý an toàn hạt nhân để nghiên cứu, rà soát xây dựng một số thông tư, quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết, hỗ trợ thẩm định đánh giá an toàn hạt nhân, các thiết kế vận hành nhà máy điện hạt nhân.


4. Tập trung triển khai nhanh hiệu quả dự án Trung tâm KH&CN hạt nhân quốc gia để tích lũy kinh nghiệm và đào tạo nguồn nhân lực, làm tiền đề tạo niềm tin trong nước và cộng đồng để triển khai các dự án hạt nhân lớn tại Việt nam.


Phối hợp với các vụ chức năng của bộ để nhanh chóng triển khai, thực hiện đề án mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia sau khi đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, từng bước đưa mạng lưới vào hoạt động, làm cơ sở cho ứng phó sự cố xảy ra ở gần biên giới và nhà máy điện hạt nhân trong tương lai.


Phối hợp xây dựng kế hoạch phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử trong giai đoạn 2030.


5. Phối hợp xây dựng nghị quyết của Bộ Chính trị nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về thúc đẩy ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình, phục vụ phát triển kinh tế xã hội (quý 2) – văn bản chỉ đạo đầu tiên của Đảng với ngành.


Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt
Giải pháp và nhiệm vụ của VINATOM về phát triển năng lượng nguyên tử và hỗ trợ dự án điện hạt nhân

1. Xây dựng một chương trình nghiên cứu dài hạn, tập trung xây dựng tiềm lực khoa học, triển khai nhiệm vụ nghiên cứu chất lượng tốt, trước mắt VINATOM tập trung vào nhiệm vụ quan trọng và cần thiết hiện nay về ứng dụng năng lượng nguyên tử, trong đó nâng cao tiềm lực nghiên cứu để hỗ trợ chương trình điện hạt nhân của Việt Nam.

2. Xây dựng một số nhóm nghiên cứu xuất sắc, trong đó có các nhóm tập trung cho công nghệ hạt nhân, ví dụ vật lý hạt nhân, thủy nhiệt, đánh giá an toàn, một số công nghệ được lựa chọn ở Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (các nhóm tại Đà Lạt, Hà Nội).

3. Phối hợp và hợp tác với một số trường đại học, viện nghiên cứu trong vấn đề R&D, hợp tác với một đến hai trường đại học kỹ thuật trong nước để xây dựng chương trình đào tạo về công nghệ hạt nhân, có phối hợp với các trường đại học hàng đầu của nhiều quốc gia tiên tiến.

4. Chủ động hợp tác với các chủ đầu tư, các chủ dự án hạt nhân tham gia vào nhiệm vụ tư vấn hỗ trợ kỹ thuật công nghệ an toàn và có liên quan đến các dự án công nghệ hạt nhân, tích cực đào tạo qua các kênh trong nước và quốc tế, qua các dự án. Vì vậy cần gửi các nhóm nghiên cứu ra nước ngoài làm việc, triển khai các khóa đào tạo ngắn hạn và trung hạn trong nước về lĩnh vực hạt nhân.

5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế với IAEA, các quốc gia có trình độ hạt nhân tiên tiến như Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Pháp…, coi đó như một kênh nâng cao nguồn nhân lực; gửi cán bộ nghiên cứu sang các cơ sở nghiên cứu hạt nhân hàng đầu các quốc gia.

6. Xây dựng năng lực về chế tạo thiết bị, từng bước tiến tới nội địa hóa thiết bị ion chùm tia phóng xạ, máy gia tốc; hoàn thành và đưa vào sử dụng mạng lưới quan trắc phóng xạ quốc gia, tiếp tục xây dựng đội ngũ đánh giá phát tán phóng xạ ở tầm quốc tế.

7. Tiếp tục dự án Trung tâm KH&CN hạt nhân Quốc gia với Rosatom, kịp thời đưa lò phản ứng nghiên cứu mới vào vận hành.

TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng VINATOM

Bài đăng KH&PT số 1327 (số 3 đến số 5/2025)

Authors

(Visited 118 times, 3 visits today)