Đổi mới KHCN của Việt Nam để hội nhập quốc tế cần một cách nhìn hệ thống và một quyết tâm cao

Đã đến lức cần nhận rõ yếu tố cản trở KHCN, đó không những là hệ thống KHCVN đã trở nên lỗi thời mà còn là các nhóm lợi ích, trong đó gồm những nhà quản lý, những công chức khoa học có thế lực, có khả năng lũng đoạn, muốn kéo dài tình trạng quản lý KHCN như hiện nay để họ hưởng lợi. Cần thiết phải đổi mới hệ thống KHCN theo mô hình tối ưu nhất và trên cơ sở tôn trọng các tiêu chí đánh giá và các chuẩn mực quốc tế về KHCN. Hệ thống KHCN mới sẽ tạo điều kiện tối ưu thu nhập và điều kiện nghiên cứu cho những ai hội đủ tiêu chí về nắng lực và phẩm chất, có khả năng nghiên cứu KHCN. Hệ thống mới cũng loại thải những ai người không hội đủ năng lực cho nghiên cứu KHCN theo chuẩn quốc tế.

I. Bức tranh KHCN của Việt Nam – những nghịch lý buồn
Có lẽ chưa bao giờ KHCN và GDĐT của ta đứng trước những thách thức to lớn như lúc này. Thực ra, không phải mấy cái lĩnh vực này bây giờ mới bắt đầu xuống cấp hay sa sút một cách đột ngột mà nó vẫn đang vận hành bình thường như những gì mà nó vẫn có. Chỉ có điều là trước nay mọi cái vẫn được chúng ta coi là bình thường, còn bây giờ khi bước chân vào cánh cổng hội nhập với cộng đồng quốc tế và khi soi vào những tiêu chuẩn quốc tế để so sánh, đánh giá chúng ta mới nhận ra nhiều cái bất cập, quá nhiều cái không bình thường và cũng chẳng giống ai. Phàm nỗi, dù chẳng giống ai nhưng nó tỏ ra ưu việt hơn ai thì cũng chẳng cần nói làm gì cho tốn giấy mực, nhưng chính những cái không bình thường và không giống ai đó đã góp phần không nhỏ làm cho KHCN, GD ĐT của Việt Nam tụt hậu và xa rời các chuẩn mực quốc tế mới phải mang ra mà mổ xẻ cớ sao mà nên nông nỗi này. Như một hệ lụy song hành, cái không giống ai trong KHCN cũng có nguồn gốc từ căn bệnh thành tích cũng như trong giáo dục, đào tạo, nó đã ăn sâu bén rễ trong KHCN, chỉ có điều là cộng đồng KHCN ở Việt Nam còn nhỏ bé và không liên quan trực tiếp đến xã hội, không tác động trực tiếp đến hàng triệu gia đình như trong giáo đục đào tạo nên nó chưa bị sức ép của xã hội mà thôi.
Đã có khá nhiều ý kiến của nhiều nhà khoa học lên tiếng về hoạt động KHCN của Việt Nam là trì trệ, là 50 năm không có một công trình đáng giá, là đáng báo động SOS, là một nền KHCN đang khủng hoảng, vv… Cũng đã có khá nhiều phân tích, tổng kết và nhiều số liệu được đưa ra để minh chứng cho các đánh giá trên đây là hoàn toàn không phải là không có cơ sở. Này nhé, một nền KHCN mà trong nhiều thập kỷ số bằng sáng chế, phát minh chỉ đếm trên đầu ngón tay. Đến những công bố khoa học đạt chuẩn quốc tế được coi là một trong những sản phẩm chính thống của KHCN cũng nghèo nàn đáng để mà suy ngẫm: một đất nước có đội ngũ KHCN khá đông đảo những người có đẳng cấp khoa học cao và có “bề dày thành tích” nhưng lại có số lượng công bố đạt chuẩn quốc tế quá khiêm tốn khi so sánh với các nước quanh ta, chỉ bằng 1/5 của Thái Lan, 1/3 của Malaysia, và 1/14 của Singapore và thấp hơn Philippines (3.901 bài) và Indonesia (4.389 bài). Điều đáng suy nghĩ hơn nữa là với tốc độ như hiện nay thì cái khoảng cách tụt hậu về KHCN còn có nguy cơ ngày càng xa hơn so với các nước trong khu vực (1).
Dẫu có thể còn nhiều ý kiến khác nhau, nhiều cách đánh giá khác nhau, nhưng một điều dễ nhận thấy nhất là hiệu quả hoạt động KHCN của ta còn thấp kém, mờ nhạt. KHCN của ta không những chưa mảy may phát huiy được vai trò động lực cho nền kinh tế đang phải đối mặt với cạnh tranh ở quy mô toàn cầu mà tự thân nó với tư duy và cung cách đang vận hành thì khả năng tự biến cải để hòa nhập quốc tế nghe ra vẫn còn xa vời. Đây là vấn đề đáng để bất cứ ai còn chút lòng tự trọng của kẻ sĩ cũng phải nghĩ suy, cật vấn lương tâm để mà tìm ra lời giải. Đã không ít các học giả trong nước và quốc tế (các GS Hoàng Tụy, Phạm Hiển, Nguyễn Văn Tuấn và nhóm các nhà khoa học tham gia diễn dàn KHCB và gần đây nhất là sáng kiến của các nhà khoa học Hàn Quốc về chương trình Pioneer) đã phân tích, hiến kế cho KHCN Việt Nam phương cách, đường hướng thoát khỏi tình trạng trì trệ để cất cánh. Đã có không ít “hội nghị, hội thảo Diên Hồng” với mong muốn có được những ý kiến nói thẳng, nói thật về về thực trạng KHCN ở Việt Nam để tìm ra giải pháp, cách đi phù hợp cho KHCN Việt Nam theo kịp nền kinh tế đang tăng tốc. Chủ trương của nhà nước đã có, các ý kiến tâm huyết của các nhà khoa học và giải pháp được đưa ra cũng không ít, nhưng đâu đó lực cản vô hình và hữu hình còn hiển hiện. Trong một diễn dàn nhỏ mới đây ở báo Tia Sáng, nhiều ý kiến thẳng thắng chỉ ra lực cản lớn nhất hiện nay là các nhóm lợi ích, trong đó gồm những nhà quản lý, những công chức khoa học có thế lực, có khả năng lũng đoạn, muốn kéo dài tình trạng quản lý KHCN như hiện nay để họ hưởng lợi. Cái lợi mà họ đang thu được không hơn không kém là hành vi tham nhũng trong hoạt động KHCN. Rõ ràng, chỉ khi nào gọi đúng căn bệnh thâm căn, cố đế đang nhân danh KHCN nhưng làm biến dạng nền KHCN chân chính thì mới hy vọng đưa ra liệu pháp đúng để đưa KHCN vào hoạt động đúng như những gì nó phải có và phải làm. Đã không ít ý kiến thẳng thắn cho rằng đã đến lúc và trước hết chúng ta phải tuyên chiến với các nhóm lợi ích đang lũng đoạn KHCN, đang muốn kéo dài tình trạng “đục nước béo cò” để hưởng lợi, bất chấp lợi ích đất nước cũng như các chuẩn mực quốc tế. May thay, vận nước đang thay đổi, KHCN không thể mãi đứng ngoài tiến trình đó. Với việc ra nhập công đồng quốc tế một cách sâu rộng và toàn diện, cũng như các lĩnh vực khác, KHCN không còn con đường nào khác – đó là con đường hòa nhập quốc tế. Như vậy, dù ai đó muốn cản trở cũng chỉ có thể làm chậm bước đi chứ không thể không thể níu kéo mãi tình trạng trì trệ như hiện nay và càng không thể xoay chiều xu thế hội nhập và các chuẩn mực quốc tế được. Vấn đề còn lại là những người quyết định đường lối, chính sách KHCN có muốn làm và dám làm để đẩy nhanh tốc độ hội nhập không mà thôi.
Để xây dựng một nền KHCN lành mạnh và phát huy hiệu quả, trong một bài trước đây tôi đã phân tích 6 yếu tố cần và đủ để phát triển KHCN ở Việt Nam, đó là Hệ thống chính sách, (nói đúng hơn là hệ thống quản lý), nguồn nhân lực tốt, điều kiện nghiên cứu, Môi trường hợp tác, Thị trường KHCN và việc tổ chức hệ thống KHCN thích hợp (2). Tuy nhiên, chúng ta không thể chờ đến lúc hội đủ cả các yêu tố trên mới đưa KHCN vào vận hành được mà vấn đề quan trọng hiện nay là một mặt cần phải xây dựng một lộ trình thích hợp để phát triển KHCN Việt Nam đạt trình độ quốc tế trong vòng vài ba thập kỷ. Ngay lúc này chúng ta có thể và cần tổ chức lại hệ thống KHCN để phát huy được những gì ta đang có và để từ đó KHCN của ta đi đúng hướng và phát huy hiệu quả cao nhất. Để KHCN trở nên lành mạnh và vận hành tốt, không có con đường nào khác ta phải nói lời chia tay với tư duy và cách làm không giống ai xưa nay, để hội nhập quốc tế không có cách nào khác phải tôn trọng các quy tắc, chuẩn mực và luật chơi quốc tế.  Việc cần thiết trước tiên là phải tham khảo các mô hình tổ chức KHCN của thế giới để tổ chức lại hệ thống KHCN ở nước ta.

II. Tham khảo các mô hình tổ chức KHCN
Trên thế giới có khá nhiều mô hình tổ chức KHCN, nhưng chung quy có 2 mô hình chính: mô hình tách biệt hệ thống các nghiên cứu và đào tạo theo mô hình của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN trước đây.  Ở những nước này thành lập hệ thống các Viện nghiên cứu khoa học, nông nghiệp, y học, quân sự vv.. chủ yếu chỉ nghiên cứu và đào tạo nghiên cứu sinh. Hệ thống các Viện nghiên cứu này có quyền năng và được nhà nước giao nhiệm vụ và ưu tiên cấp kinh phí cho hoạt động nghiên cứu. Còn hệ thống các trường đại học chủ yếu chỉ đào tạo, chức năng nghiên cứu bị coi nhẹ, thậm chí chỉ để phục vụ ho việc thực tập của sinh viên. Hệ thống KHCN này mặc dù có một số ưu điểm nhất định như có thể tập trung nhân tài, vật lực để tập trung giải quyết một vấn đề nào đó, nhất là các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, nhưng nhìn chung nó được vận hành theo kiểu hành chính, mệnh lệnh. Một hệ thống nghiên cứu được bao cấp, biên chế nhân sự cứng nhắc, ít phải cạnh tranh dẫn đến hiệu quả nghiên cứu KHCN thấp (số bài báo công bô đạt chuẩn quốc tế, số giải thưởng nobel, số sáng chế phát minh được đăng ký đều ít). Rõ ràng, mô hình này có nhiều hạn chế và khiếm khuyết do cơ chế quản lý vẫn nặng tính hành chính bao cấp và không tạo ra được môi trường cạnh tranh trong KHCN. Hơn nữa, đặc thù của hệ thống này là đề cao hoặc khuyến khích tạo ra những quan trường trong khoa học mà hầu như không mấy coi trọng đến hiệu quả hoạt động KHCN. Việc tạo ta quá nhiều chức tước khoa học như PGS, GS, Viện sĩ thông tấn, Viện sĩ chính thức và nhiều bằng cấp khoa học như PTS, TS (tương đương tiến sĩ, tiến sĩ khoa học), không những mất nhiều thời gian công sức cho các chức tước, bằng cấp này mà còn tạo ra một tầng lớp thần quyền trong khoa học với nhiều đặc quyền đặc lợi. Tầng lớp này một khi có quyền lực chỉ thích ý kiến xuôi chiều mà dị ứng với quan điểm hay ý kiến khác biệt, đó là cách hành xử tối kỵ trong KHCN vì dẫn đến sự triệt tiêu sự sáng tạo trong KHCN. Ngoài ra, một khi những người có quyền lực mà có những quan điểm sai lầm (như Lưxenko) trở thành vật cản cho phát triển KHCN, phải mất hàng thế hệ mới hy vọng sửa chữa sai lầm như vậy. Theo mô hình tách biệt nghiên cứu và đào tạo nên nguồn nhân lực được đào tạo ra thường không được cập nhật, ít có khả năng tương thích với thực tế cuộc sống và khả năng sáng tạo không cao. Mặc dù hệ thống tổ chức này đến nay đã có nhiều thay đổi theo hướng giảm dần vai trò của các Viện và tăng cường vai trò nghiên cứu cho các trường đại học. Tuy nhiên, một thiết chế KHCN đồ sộ về mặt tổ chức và quyền năng, đã tồn tại nhiều chục năm nên việc chuyển đổi không dễ dàng như mong muốn.
Gần như đối lập với mô hình KHCN trên đây là hệ thống tổ chức KHCN ở Mỹ và nhiều nước Tây Âu. Ở đây, nghiên cứu được triển khai chủ yếu ở các trường đại học. Thực ra ở các nước phát triển đều tổ chức theo mô hình này nhưng có lẽ ở Mỹ hệ thống nghiên cứu này khá điển hình và áp dụng rộng rãi cho các Viện nghiên cứu, trường đại học. Nhìn chung hệ thống tổ chức KHCN ở Mỹ có thể bao gồm các tổ chức sau đây:
Hệ thống các trường đại học (University): trường đại học ở Mỹ không những là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao mà còn là các trung tâm nghiên cứu quan trọng nhất. Ở đây chủ yếu nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu phát triển công nghệ mũi nhọn.
Hệ thống các Viên nghiên cứu quốc gia (như Cơ quan nghiên cứu hàng không và vũ trụ (NASA), Viện Y tế quốc gia, Viện Công nghệ Massachussset, Viện Công nghệ California, vv.. (Thực ra Viện Công nghệ Massachussset, Viện Công nghệ California có tên gọi là Viện Công nghệ nhưng cũng là các trường đại học nghiên cớu), nghiên cứu sâu về các lĩnh vực ưu tiên, đặc thù.
Hệ thống nghiên cứu ở một số bộ ngành đặc thù như Bộ Nông nghiệp, Bộ Nội địa (Thiên nhiên và Môi trường), Bộ Năng lượng, Bộ Giao thông hay các Bảo tàng tự nhiên. Các nơi này nghiên cứu chủ yếu phục vụ dự tính, dự báo, bảo về và bảo tồn tài nguyên và môi trường.
Hệ thống nghiên cứu ở các doanh nghiệp, công ty lớn (Silicon Valley) nghiên cứu triển khai và ứng dụng
Đặc biệt, khác với nhiều nước, ở Mỹ không có Bộ Khoa học Công nghệ, chỉ có Bộ Giáo dục và ngay cả Bộ Giáo dục liên bang cũng không quản lý trực tiếp hoạt động KHCN hay giáo dục đào tạo như ở Việt Nam. Thay vào đó hoạt động KHCN ở Mỹ hoàn toàn do các trường đại học và các tổ chức nghiên cứu có toàn quyền định đoạt. Tất nhiên, toàn quyền định đoạt ở đây được hiểu là các trường, viện có quyền tổ chức hệ thống nghiên cứu của mình sao cho hiệu quả nhất, các nhà khoa học có quyền tự do tìm các nguồn tài trợ, tự do nghiên cứu và sáng tạo. Đương nhiên, tự do không có nghĩa là muốn làm gì thì làm mà vẫn phải tuân thủ luật pháp và các quy chế của các quỹ hoặc tổ chức tài trợ kinh phí cho nghiên cứu. Ở quy mô Liên bang có 2 tổ chức có ảnh hưởng và chi phối đối với hoạt động KHCN là Viện Hàn Lâm Khoa học Quốc gia Mỹ (USNAS) và Quỹ Khoa học quốc gia (USNSF). Cả hai tổ chức này không phải là những chế tài quản lý hành chính mà là những tổ chức hoạt động tư vấn và tài trợ. USNAS là Hiệp hội với hơn hai ngàn nhà khoa học hàng đầu của Mỹ và một số nhà khoa học quốc tế. hoạt động tư vấn và phản biện với 2 chức năng cơ bản i) tư vấn độc lập về đường lối chính sách KHCN cho chính phủ liên bang, và ii) tham gia bình duyệt, thẩm định các đề tài, đề án xin tài trợ từ Quỹ khoa học Quốc gia. Còn Quỹ khoa học Quốc gia (NSF) hàng năm được Quốc hội phê chuẩn cấp kinh phí khoảng 6 tỷ US dollars, trong đó phần lớn để tài trợ nghiên cứu, một phần nhỏ tài trợ cho giáo dục.
Đơn vị nghiên cứu cơ bản ở Mỹ là các phòng thí nghiệm (Lab). Các Lab trực thuộc các phòng nghiên cứu chuyên ngành (Department) và trên các phòng nghiên cứu trực thuộc các Viện nghiên cứu, trường đại học. Mỗi phòng nghiên cứu như vậy bao gồm từ ít nhất là 5, 10 đến 20 thậm chí 30 Lab). Mỗi Lab là một nhóm nghiên cứu khá độc lập do một Faculty (là PGS, GS hay NCVC, NCVCC) đứng đầu và có 2-3 nghiên cứu viên (research staff) là những người có trình độ TS hoặc sau TS (postdoc), 3-5 Trợ lý nghiên cứu (research asisstants) thường là nghiên cứu sinh (graduate students). Mỗi Lab như vậy chỉ có người đứng đầu (Faculty) là thuộc diện biên chế thường xuyên của trường/viện, còn những người khác thuộc hợp đồng có thời hạn, theo nhiệm kỳ của đề tài nghiên cứu (thường được thông báo tuyển chọn trên qui mô quốc gia hoặc quốc tế).  Mỗi Lab như vậy có đủ điều kiện thiết bị và nhân lực để triển khai một nghiên cứu độc lập. Về cơ sở vật chất: Tùy thuộc vào đặc thù nghiên cứu, mỗi Lab gồm 1-2 phòng thí nghiệm lớn (diện tích 80-100 m2) để lắp đặt thiết bị nghiên cứu và 1 phòng làm việc (office room) diện tích 24 m2 cho trưởng Lab. Đầu tư trang thiết bị cho 1 Lab như vậy khoảng 500,000 đến 1 triêu US$ (đối với các Lab về Sinh học).
Mô hình các Lab, trong đó người đứng đầu có vai trò như kiến trúc sư trưởng, đưa ra ý tưởng, xin kinh phí tài trợ từ các nguồn khác nhau và trực tiếp tuyển chọn đội ngũ nhân lực tham gia thực hiện đề tài. Đây thực sự là mô hình rất năng động. Các Lab thực sự là nơi sản sinh ra các sản phẩm nghiên cứu KHCN (công bố quốc tế, pattents, đào tạo NCS). Vì vậy việc xây dựng được hệ thống các Lab tiêu chuẩn có tầm quan trọng đặc biệt. Việc xác định hệ thống các Phòng nghiên cứu và các Lab phải trên nhu cầu phát triển KHCN, thế mạnh và nguồn nhân lực dẫn đầu của từng trường đại học, Viện nghiên cứu, do Hội đồng Giáo sư xem xét và đề nghị. Các vị trí Faculty (các PGS và NCVC trở lên) là linh hồn của các Lab được thiết kế, quy hoạch và thông qua một quy trình tuyển chọn chặt chẽ các ứng viên quốc gia và quốc tế. Quy trình này cho phép tuyển chọn được những người thực sự dẫn đầu trong lĩnh vực chuyên môn hẹp, là những người không những đã có kinh nghiệm trong nghiên cứu mà còn  có kinh nghiệm trong chỉ đạo nghiên cứu và đặc biệt là những người đã có thành tích chuyên môn xuất săc (trên cơ sở các công bố quốc tế trong 5 năm gần nhất). Như vậy, các vị trí các Faculty này rất quan trọng, phải thực chất, được tuyển chọn công khai và bổ nhiệm theo tiêu chuẩn quốc tế. Chỉ trên cơ sở như vậy thì việc đầu từ cho nghiên cứu KHCN mới hiệu quả.
Như vậy có thể thấy một số đặc thù quan trọng trong hệ thống KHCN ở Mỹ (và hầu hết ở các nước có nền KHCN phát triển khác) rất khác với hệ thống tổ chức KHCN của ta, đó là: i) Hệ thống quản lý và hoạt động KHCN không tổ chức theo cấp hành chính từ trung ương đến địa phương mà được tổ chức ở các trường đại học và Viện nghiên cứu và các công ty; ii) Mặc dù hệ thống KHCN được tổ chức khá đa dạng nhưng lại có sự “phân công tự nhiên” về chức năng và nhiệm vụ của mỗi hệ thống, mỗi tổ chức thích ứng với mục đích hoạt động của hệ thống, tổ chức đó; iii) Tính độc lập cao cho các trường và viện nghiên cứu nơi triển khai các hoạt động KHCN, nhà nước chỉ đóng vai trò tư vấn hỗ trợ chứ không trực tiếp quản lý hoạt động KHCN; iv) Nghiên cứu KHCN và đào tạo nguồn nhân lực luôn luôn gắn liền với nhau; và v) Tổ chức nghiên cứu KHCN cơ bản là hệ thống các phòng thí nghiệm, không những cho phép các nhà khoa học phát huy tính chủ động, sáng tạo trong một môi trường hợp tác và cạnh tranh lành mạnh mà còn gắn quyền lợi và trách nhiệm với nhà khoa học và tập thể nghiên cứu do nhà khoa học đứng đầu.

III. Mô hình tổ chức KHCN tối ưu cho Việt Nam

Hệ thống KHCN của ta hiện nay chủ yếu theo mô hình của Liên Xô trước đây, qua nhiều chục năm không những đã tỏ ra lạc hậu và kém hiệu quả mà còn để lại những di chứng nặng nề đối với hệ thống và cả với tư duy của cả một tầng lớp các nhà KHCN. Cũng còn may là một nước đi sau và từ một xuất phát điểm còn thấp nên Việt Nam có thể dễ dàng chuyển đổi theo mô hình KHCN của Mỹ và Tây Âu.

A. Đổi mới hệ thống quản lý KHCN
Đổi mới hệ thống KHCN có một ý nghĩa tiên quyết, không những triệt tiêu lực mọi lực cản hiện nay mà còn tạo động lực mới cho KHCN vận hành tốt và tăng tốc. Trước hết để KHCN và GD ĐT song hành và bổ trợ đắc lực cho nhau cần thiết phải sát nhập chức năng KHCN của Bộ KHCN sang Bộ GD ĐT thành Bộ KHCN- GDĐT.
Thành lập Viện hàn lâm Khoa học Việt Nam theo mô hình Mỹ, tập hợp các nhà khoa công nghệ hàng đầu để tư vấn chính sách KHCN (thông qua Hội đồng Chính sách KHCN) cho nhà nước. Trước mắt, khi chưa thành lập Viện hàn lâm Khoa học Việt Nam, có thể thành lập mới Hội đồng KHCN Quốc gia, trong đó có các Hội đồng KHCN chuyên ngành đảm nhiệm chức năng tư vấn và thẩm định các đề án KHCN.
Thành lập Quỹ KHCN quốc gia (đã có). Quỹ KHCN quốc gia là tổ chức độc lập hoạt động phi lợi nhuận. Quỹ có chức năng tập hợp các nguồn kinh phí, xem xét và tài trợ kinh phí cho các hoạt động KHCN – GD ĐT đồng thời quản lý và giám sát việc sử dụng nguồn kinh phí hiệu quả nhất. Quỹ quốc gia tài trợ kinh phí chủ yếu cho các nghiên cứu cơ bản và có thể tài trợ một phần cho các nghiên cứu triển khai, cho vay vốn với lãi xuất ưu đãi đối với các nghiên cứu ứng dụng hoặc đề án sản xuất thử.
Tăng kinh phí cho KHCN: tương đương mức trung bình của thế giới là 2-3 % GDP thay cho mức 2% chi ngân sách như hiện nay. Ngoài nguồn ngân sách nhà nước, nhà nước có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, các nhà tài trợ quốc tế, các nhà hảo tâm, vv…đóng góp kinh phí cho hoạt động nghiên cứu KHCN.
Thành lập hệ thống nghiên cứu và đào tạo trên cơ sở các phòng thí nghiệm (Lab) và nguồn nhân lực (đáp ứng tiêu chí quốc tế) hiện có. Mạnh dạn bỏ hệ thống biên chế theo kiểu hành chính, cứng nhắc, kém hiệu quả hiện nay sang mô hình tổ chức phòng thí nghiệm (Lab). Giao quyền tự chủ cho nhà khoa học đứng đầu Phòng thí nghiệm trong việc xin tài trợ và tổ chức nghiên cứu, tự do sáng tạo.
Xác định sản phẩm KHCN theo chuẩn quốc tế: đó là các sáng chế phát minh (patents), các công bố quốc tế và các tiến sĩ đạt chuẩn quốc tế được đào tạo. Cần nâng cấp nhanh chóng và quốc tế hóa các tập chí KHCN của Việt Nam

B. Đổi mới hệ thống các tổ chức nghiên cứu KHCN

Tổ chức hệ thống nghiên cứu kết hợp đào tạo tại các trường đại học. Hiện tại các trường đại học ở Việt Nam chủ yếu chỉ đào tạo, còn chức năng nghiên cứu hoặc chưa có hoặc còn yếu. Cần tăng cường chức năng nghiên cứu. Các GS, PGS cần giành khoảng 70% quỹ thời gian cho nghiên cứu. Công bố quốc tế và chất lượng giảng dạy phải được coi là tiêu chí thăng tiến của các GS, PGS tại các trường đại học.
Chuyển đổi Viện KHCN VN sang theo mô hình Viện Công nghệ California hay Viện Công nghệ Masachssetts, ngoài chức năng nghiên cứu voons có tăng cường chức năng đào tạo nguồn nhân lực KHCN cao.
Sát nhập Viện KHXH Việt Nam vào Học Viện Chính trị Quốc gia với chức năng nghiên cứu và đào tạo theo mô hình đại học Harvard hay và Học viện Hành chính Quốc gia Paris
Đổi mới tổ chức và chức năng của các Viện nghiên cứu thuộc Bộ Nông nghiệp, Y tế theo hướng gọn nhẹ, tinh nhuệ. Giảm quy mô và chức năng các Viện này trong khuôn khổ nghiên cứu triển khai và nghiên cứu ứng dụng. Chuyển các nghiên cứu cơ bản về các trường đại học.
Tương tự, đổi mới tổ chức và chức năng của các Viện nghiên cứu thuộc Bộ Quốc Phòng, Công An ế theo hướng gọn nhẹ, tinh nhuệ. Chuyển các nghiên cứu cơ bản về các trường đại học thuộc hệ thống An ninh, Quốc Phòng
Khuyến khích thành lập các Viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm thuộc các công ty, doanh nghiệp lớn.

C. Đổi mới hệ thống nghiên cứu tại các trường đại học, Viện nghiên cứu
Tổ chức hệ thống các phòng thí nghiệm chuẩn (đối với khoa học tự nhiên) hay các ban (section), phòng (department) nghiên cứu chuẩn (đối với khoa học xã hội) tại các trường đại học, Viện nghiên cứu, gọi tắt chung là phòng thí nghiêm (Lab).
Tiêu chí xác định các phòng thí nghiệm: Đây cũng là tiêu chí tuyển chọn và thành lập các nhóm nghiên cứu tiên phong trong giai đoạn hiện nay:
Có chức năng nghiên cứu và đào tạo thuộc một trường đại học, Viện nghiên cứu
Về nhân sự: có người đứng đầu đủ trình độ tổ chức hoạt động nghiên cứu và đào tạo. Có sẵn nguồn nhân lực đạt yêu cầu dự kiến (2-3 tiến sĩ, 2-3 NCS) để triển khai nghiên cứu và đào tạo.
Về cơ sở vật chất: đã có sẵn cơ sở vật chất khá tốt (chiếm 50-75% yêu cầu đầu tư trở lên). Có thể ngoại lệ trong một số trường hợp tổ chức nhóm nghiên cứu mới hoàn toàn.
Về kinh nghiệm: đã tổ chức những đề án nghiên cứu được đánh giá tốt và có các công bố quốc tế. đã và đang đào NCS đạt trình độ tốt (quốc tế).
Trong các tiêu chí trên đây: người đứng đầu đủ trình độ tổ chức hoạt động nghiên cứu và đào tạo theo chuẩn quốc tế là tiêu chí quan trọng nhất.

D. Các tiêu chí đánh giá tuyển chọn nhóm KHCN và người chủ trì các nhóm KHCN tiên phong (4)
1. Tiêu chuẩn người đứng đầu nhóm nghiên cứu (Lab). Người đứng đầu nhóm nghiên cứu cũng là người lãnh đạo Lab có vai trò quan trọng hàng đầu trong hệ thống KHCN. Đây cũng là tiêu chí tuyển chọn và thành lập các nhóm nghiên cứu tiên phong trong giai đoạn hiện nay:
Thuộc cán bộ cơ hữu trường đại học, Viện nghiên cứu có trình độ Tiến sĩ trở lên (điều kiện tiên quyết).
Đã và đang chủ trì các đề tài nghiên cứu đạt trình độ quốc tế (điều kiện ưu tiên)
Trong 5 năm trở lại đây có ít nhất 2-3 công bố quốc tế thuộc danh sách International Citation Index (ICI) (điều kiện tiên quyết).
Đã và đang đào tạo TS đạt trình độ tốt (quốc tế). (điều kiện ưu tiên)
Trong các tiêu chí trên đây: thành tích hoạt động KHCN thông qua các công bố quốc tế là tiêu chí quan trọng nhất.
2. Tiêu chí của các đề án KHCN khả thi (để tài trợ kinh phí nghiên cứu). Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu thuyết minh của Quỹ khoa học công nghệ quốc gia. Nhưng đáp ứng các tiêu chí quan trọng sau đây.
Có mục tiêu nghiên cứu (rõ ràng)
Tại sao lại nghiên cứu (sự cần thiết của nghiên cứu)
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu: phục vụ phát triển kinh tế xã hội, giáo dục đào tạo, hoặc bổ sung vào tri thức nhân loại.
Có sản phẩm cụ thể (công bố quốc tế, pattents, NCS bảo vệ thành công luận án)
Phương pháp nghiên cứu hiện đại, cập nhất quốc tế và có tính khả thi cao
Lực lượng nghiên cứu: Người chủ trì nhóm nghiên cứu có phẩm chất khoa học và kinh nghiệm triển khai một đề án theo tiêu chuẩn quốc tế (như trên). Có đủ 3-5 cộng tác viên có kinh nghiệm nghiên cứu và phẩm chất khoa học theo tiêu chuẩn quốc tế, đã có tối thiểu 1 công bố quốc tế (Trong đó có những công bố chứng tỏ đã hợp tác và làm việc nhóm có hiệu quả).
Cơ sở vật chất: Phòng thí nghiệm, trang thiết bị, tài liệu, hệ thống nối mạng. Cơ sở vật chất tối thiểu đảm bảo 75% nhu cầu của đề án đăng ký
Hợp tác quốc tế: kèm theo bản thuyết minh có văn bản cam kết hợp tác của các nhà khoa học quốc tế có uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu.
Thuyết minh kinh phí rõ ràng và hợp lý
Do trình độ KHCN của ta còn thấp, vì vậy cần khuyến khích việc tạo dựng các nhóm KHCN tiên phong, trên cơ sở các tiêu chí rõ ràng như trên, không nhất thiết hạn chế 200 nhóm (Lab) mà có thể ít hơn hoặc nhiều hơn, phụ thuộc vào năng lực và phẩm chất của đội ngũ KHCN hiện có. Tuy nhiên theo dự đóan cá nhân, con số này có thể là 300-500 nhà khoa học có khả năng thành lập nhóm khoa học tiên phong.
3. Kinh phí cho đề án KHCN tiên phong.  Khoảng 1,6 – 2, 0 tỷ VND năm (tương đương 100-120 US$/năm). Nguồn kinh phí này được xác định trên cơ sở thuyết minh hợp lý của đề án và được chi cho các khoản sau đây:
Nhu cầu nghiên cứu: vật tư, nguyên liệu tiêu hao, chi phí đi lại tổ chức khảo sát thực địa
Chi bảo dưỡng khấu hao thiết bị đã có,
Có thể mua sắm thêm thiết bị cho đề án (không quá 25% tổng kinh phí)
Chi phí thu nhập của thành viên đề tài (trong đó chủ trì có mức thu nhập 1000-1200 US$, thành viên đề tài 500-600 US$) (Mỗi năm nguyên khoản chi này chiếm khoảng 50% kinh phí đề án, tức khoảng 60,000 US$)
Chi phí tham dự Hội nghị Hội thảo quốc tế
Chi phí tiền ăn ở và làm việc cho chuyên gia quốc tế đến hợp tác và làm việc trong khuôn khổ đề tài
4. Quy trình tuyển chọn đề tài KHCN tiên phong
Bước 1: Nộp ý tưởng (Letter of Intention) theo mẫu thiết kế với khoảng 10-15 trang – bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh
Bước 2: Hoàn thành và nộp đề án đầy đủ (project detail decription): 75-100 trang (kể cả phụ lục) – bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh (hoặc ít nhất là tóm tắt bằng tiếng Anh)
Bước 3: Thỏa thuận và Ký hợp đồng với Quỹ khoa học quốc gia
5. Yêu cầu thẩm định
Thành lập các Hội đồng tuyển chọn đề tài là những nhà KH không những có kinh nghiệm và trình độ quốc tế mà còn là những người có đạo đức nghề nghiệp và khả năng thẩm định công bằng và khách quan (đối với các đề tài có yêu cầu kinh phí lớn. VD đề tài có kinh phí từ 75,000 US$ có thể mời thêm chuyên gia quốc tế tham gia thẩm định và phản biện)
Mỗi đề án có 3 chuyên gia cùng lĩnh vực nhận xét độc lập (refferees), trong đó ít nhất có 1 chuyên gia quốc tế. Ngoài ra, nên mời chuuyên gia quốc tế tham gia các Hội đồng thẩm định (Evaluation Commitee)
Mô hình KHCN trên đây có thể đáp ứng và tương thích đồng thời với 3 đề án, chương trình đang được bàn thảo nhiều như đề án “200 nhà KHCN tài năng được trả lương 1-2000 USD/tháng”, hay “Chương trình Pioneer” do nhóm chuyên gia Hàn quốc đề xuất, hoặc “mô hình 200 nhóm KHCN tiên phong” do GS Phạm Duy Hiển đề xuất (3).
Việc tổ chức lại hệ thống KHCN với các tiêu chí như trên chắc chắn sẽ làm thay đổi cơ bản hệ thống KHCN hiện nay. Một trong những khó khăn khi thay đổi lớn là quá trình chọn lọc sắp xếp lại nguồn nhân lực KHCN hiện có. Sẽ có khá nhiều người bị dôi dư do không đáp ứng được tiêu chí mới hoặc không được tuyển chọn tham gia các đề tài. Trong đó có thể có một số người có học hàm học vị cao nhưng có thể sẽ không đáp ứng tiêu chí người đứng đầu nhóm nghiên cứu mới , thì cần có chế độ chính sách đối với những người này như đảm nhiệm một số nhiệm vụ mang tính chất ứng dụng, triển khai, dịch vụ KHCN nếu họ đảm nhận được hoặc được tạo điều kiện chuyển công tác về các trường đại học, cao đẳng mới thành lập hoặc chờ nghỉ chế độ hoặc thu xếp một việc làm phù hợp nào khác hợp với nguyện vọng và khả năng.
Như đã phân tích ở trên một trong những trở ngại và rào cản lớn hiện nay là thu nhập của nhà khoa học không đủ sống để làm việc bình thường. Mặc dù lương bổng và thu nhập cho nhà khoa học có được cải thiện dần dần, nhưng chắc chắn nhà nước không thể tăng lương đồng loạt cho tất cả đội ngũ cán bộ KHCN. Mô hình tổ chức mới sẽ cho cho phép sàng lọc được một đội ngũ KHCN tinh hoa, đáp ứng khả năng hội nhập quốc tế và từ đó thông qua đề tài nghiên cứu nhà khoa học có thể được cải thiện thu nhập của mình.
Mô hình sẽ khuyến khích tất cả những ai muốn làm khoa học thật sự thì chỉ có con đường học thực bằng thật, kiến thức thật, hạn chế được sự ham hố quyền lực, lãng phí chất xám, quyền lực khoa học (đúng hơn là quyền tự chủ và sáng tạo đích thực) được trao cho nhà khoa học. Chỉ có thay đổi này chúng ta mới có thể hy vọng có được một nền KHCN lành mạnh vcà đủ khả năng hội nhập quốc tế.
Như vậy để KHCN Việt Nam phát huy hiệu quả và thật sự đáp ứng yêu cầu hội nhập và cạnh tranh của nên kinh tế quốc tế, chúng ta không thể chậm trễ hơn mà cần phải dũng cảm lựa chọn giải pháp thay đổi thật sự và thay đổi cơ bản. Bất cứ thành công nào cũng phải có sự trả giá, có thể cả bằng sự hy sinh và đau đớn. Vấn đề là những người lãnh đạo, quản lý KHCN có đủ bản lĩnh và quyết tâm không mà thôi. Thời gian và nhu cầu cuộc sống sẽ không chờ đợi ại, chúng ta càng quyết tâm hành động sớm chừng nào thì sự trả giá càng thấp hơn để trước khi đã quá muộn.
E. Lộ trình chuyển đổi
Để tránh sự xáo trộn lớn, dự án chuyển đổi hệ thống KHCN trên đây nên thực hiện theo một lộ trình 3 giai đoạn sau đây:
Giai đoạn 1: từ nay đến năm 2010:
Áp dụng các tiêu chí và chuẩn mực quốc tế để đánh giá, tuyển chọn các đề tài đề án.
Ưu tiên các nhà khoa học, các nhóm nghiên cứu và các đề án có chất lượng cao và có khả năng tạo ra các sản phẩm KHCN đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế
Nói không với các đề tài đề án không có mục tiêu rõ ràng hoặc không khả thi
Chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự đổi mới toàn hệ thống
Giai đoạn 2: từ năm 2010 đến năm 2015
Chuyển đổi hệ thống quản lý KHCN theo đề án.
Tổ chức hệ thống các phòng thí nghiệm chuẩn và các nhóm nghiên cứu tiên phong
Loại bỏ hoàn toàn các tổ chức, cá nhân không đáp ứng chuẩn KHCN quốc tế
Giai đoạn 3: từ năm 2015 trở đi. Hoàn thiện hệ thống KHCN mới và vận hành theo chuẩn quốc tế.

Thực ra, nói thì dễ nhưng để làm được những ý tưởng trên không đơn giản, dòi hỏi phải quyết tâm cao. Ngay cả yêu cầu “quyết tâm cao” cũng chỉ là một câu khẩu hiệu không hơn không kém nếu không hành động. Để có quyết tâm và động cơ thật sự cho hành động thiết nghĩ cũng phải có chế tài công vụ đối với những người quản lý lãnh đạo: từ Bộ trưởng KHCN, GD ĐT, đến các Viện trưởng, Hiệu trưởng các trường Đại học phải có sản phẩm KHCN tương ứng với nguồn vốn đầu tư. Ví dụ, ở quy mô quản lý quốc gia ông Bộ trưởng phải cam kết sản phẩm KHCN đạt chuẩn quốc tế (số pattént, bài báo công bố, TS được đào tạo) tăng trưởng 20-30% mỗi năm. Tương tự, những người đứng đầu các tổ chức KHCN (trường đại học, Viện nghiên cứu cũng phải đưa ra các cam kết như vậy). Nhơ vậy, trước khi nhận trách nhiệm đứng đầu các chủ thể KHCN , ứng viên phải cam kết và đưa ra cương lĩnh hành động khả thi (cách tổ chức và vận hành) để đạt để đạt được mục tiêu.Nếu giữa nhiệm kỳ xét thấy không đạt được mục tiêu đã cam kết thì phải tự động từ chức để người khác xứng đáng hơn đảm nhân. Chỉ một khi gắn quyền lợi và trách nhiệm rõ ràng như vậy mới hy vọng thay đổi, khi đó quyết tâm cao không chỉ là câu khẩu hiệu mà là hành động. Chắc chắn những người không có năng lực sẽ không dám nhận các vị trí quan trọng này, hoặc có liều nhận nhưng không đưa ra được cương lĩnh và giải pháp khả thi cũng sẽ bị loại. Chỉ khi nào làm được như vậy mới hy vọng tránh được hiện tượng lãnh đạo “ngồi nhầm ghế” như hiện nay.

(1)  Công bố quốc tế là nghĩa vụ của nhà nghiên cứu. Tia Sáng 12/11/2007
(2)  Lời giải cho sự phát triển công nghệ sinh học ở Việt Nam. Tia Sáng 17/10/2007
(3)  Thử đi tìm một mô hình quản lý khoa học khác. Tia Sáng 27/9/2007
(4)   Ngoài một số điểm được cụ thể hóa, về cơ bản theo các tiêu chí của Chương trình nuôi dưỡng các nhóm nghiên cứu mạnh (Pioneer Program) do nhóm chuyên gia KISTEP Hàn Quốc đề nghị tại Hội thảo, Bộ KHCN ngày 30/8/2007.

*Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật
Nguyễn Ngọc Châu*

Tác giả

(Visited 6 times, 1 visits today)