FDI trong kỷ nguyên “vươn mình” của Việt Nam

Vừa qua, Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đây là “động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”. Vậy trong bối cảnh đó, vai trò của FDI sẽ thay đổi như thế nào?

Sản xuất linh kiện máy tính ở Việt Nam. Ảnh: Shutterstock.

Kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc đáng kể vào FDI

Trong nhiều năm, Việt Nam luôn đứng top đầu ở châu Á trong danh sách các điểm đến hấp dẫn đối với những nhà đầu tư nước ngoài. Thật vậy, nhiều chuyên gia cho rằng chính phủ và các địa phương ở Việt Nam đã “trải thảm đỏ”, thậm chí là “quá mức” để thu hút FDI. Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987) – một dấu mốc quan trọng trong chính sách mở cửa, Việt Nam liên tục cải tiến khung pháp lý để tạo điều kiện tốt nhất cho dòng vốn này. Các sửa đổi lớn như Luật Đầu tư (1996, 2005, 2014, 2020), Luật Doanh nghiệp (2000, 2014, 2020) đều hướng tới đơn giản hóa thủ tục, mở rộng lĩnh vực ưu tiên, bảo đảm quyền lợi nhà đầu tư, bảo vệ sở hữu trí tuệ và quyền chuyển lợi nhuận.

Chính sách ưu đãi thuế, phát triển hạ tầng, cũng như hàng loạt hiệp định thương mại tự do (CPTPP, EVFTA, RCEP,…) đã giúp Việt Nam đứng vững trong cạnh tranh thu hút FDI với các nước trong khu vực. Đặc biệt, các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ còn 5-12,5% đối với dự án FDI, hay miễn giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu, linh kiện… còn thể hiện sự ưu ái của chính phủ đối với các doanh nghiệp FDI hơn cả các công ty nội địa. 


Theo kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam cần phải “chuẩn bị tinh thần” cho một tương lai gần mà FDI ngày càng ít tác động tích cực tới sự tăng trưởng của nền kinh tế, nếu vẫn duy trì chính sách như hiện tại. 

Những chính sách trên đã góp phần hình thành nên ảnh hưởng to lớn của FDI lên nền kinh tế Việt Nam. Quy mô của vốn FDI tính theo phần trăm GDP ở Việt Nam cao hơn hẳn so với Thái Lan và Trung Quốc. Theo Tổng cục Thống kê, đóng góp của khu vực FDI vào GDP và xuất khẩu của Việt Nam lần lượt là 15,11% và 53,2% vào năm 2010. Con số này tăng lên 20,3% và 73% vào năm 2023. Ta nên lưu ý rằng ở khu vực FDI, không phải tất cả các doanh nghiệp đều là 100% vốn nước ngoài mà còn có cả các công ty liên doanh. Do vậy, trong đóng góp của khu vực FDI, có một phần đóng góp từ vốn trong nước, chứ không phải là toàn bộ do vốn nước ngoài. Từ đó, đóng góp thực sự của FDI vào GDP rất có khả năng là thấp hơn 16%. Nhưng kể cả như vậy, đây vẫn là con số đáng kể. Khu vực FDI còn tạo việc làm cho 5,26 triệu người (chiếm 10,3% lực lượng lao động) năm 2023. Chú ý là con số này năm 2010 chỉ là 1,73 triệu (tương ứng với 3,5% lực lượng lao động). Năm 2024, khu vực FDI đóng góp vào ngân sách nhà nước khoảng 20,49 tỷ USD, chiếm 24,7% tổng thu ngân sách nhà nước.1

FDI rồi sẽ mất dần ý nghĩa?

FDI không chỉ là thúc đẩy đầu tư, mà nó còn được kỳ vọng mang theo công nghệ, kỹ năng quản lý, quy trình sản xuất hiện đại, mạng lưới toàn cầu và đóng góp vào sự phát triển kinh tế của nước nhận.

Nhưng thực tế không lạc quan như mong đợi. Điều đáng lo ngại là những tác động to lớn của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam lại không thực sự song hành với sự lớn mạnh của nền công nghiệp trong nước. Phần lớn các dự án FDI đều tập trung vào việc khai thác nguồn nhân công giá rẻ, ít công nghệ cao. Trong một chia sẻ trên báo vào năm 20222, TS. Nguyễn Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Đầu tư nước ngoài cho biết, chỉ có 5% dự án FDI đầu tư vào Việt Nam có công nghệ hiện đại, còn lại 80% là công nghệ trung bình và 15% là công nghệ cũ, lạc hậu. Tỉ lệ doanh nghiệp FDI mua nguyên liệu đầu vào trong nước còn thấp (chỉ 41.4% vào năm 2020). Tất cả cho thấy mối quan hệ giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước còn yếu và do vậy, hiệu ứng lan tỏa – kỳ vọng rằng FDI có thể “nâng tầm” các doanh nghiệp trong nước là hạn chế. Đó còn chưa kể, nguồn thu ngân sách từ FDI đang là một dấu hỏi lớn khi tình trạng trốn thuế, chuyển giá khá phổ biến trong khối doanh nghiệp nước ngoài.3 Hơn ½ doanh nghiệp FDI ở Việt Nam liên tục báo lỗ dù vẫn tăng trưởng mạnh mẽ. 

Quy mô FDI trên GDP của Việt Nam vượt xa Trung Quốc và Thái Lan.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nói chung, FDI chỉ có ảnh hưởng dương với các nước thu nhập thấp hoặc trung bình thấp, sau đó ảnh hưởng này giảm dần đến mức không đáng kể, hoặc thậm chí ảnh hưởng âm. Việt Nam nhận FDI lúc ở trình độ phát triển thấp (với GDP đầu người ít hơn 1000 USD) và giờ đang “mấp mé” ngưỡng thu nhập trung bình cao. Theo kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam cần phải “chuẩn bị tinh thần” cho một tương lai gần mà FDI ngày càng ít tác động tích cực tới sự tăng trưởng của nền kinh tế, nếu vẫn duy trì chính sách như hiện tại. 

Ở cấp độ vĩ mô, một số nghiên cứu cho thấy tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế của nước sở tại tương đối yếu (Carkovic & Levine, 2005, Gunby et al., 2017). Và, FDI có tác động tới các nước thu nhập thấp đến trung bình tốt hơn và lớn hơn các nước có thu nhập trung bình cao (Baiashvili và Gattini, 2020).

Bằng chứng thực nghiệm cho thấy FDI có tác động lan tỏa tiêu cực từ các doanh nghiệp FDI thượng nguồn sang các nhà sản xuất hạ nguồn trong nước.4 Nói một cách dễ hiểu, với một sản phẩm, các doanh nghiệp FDI chuyên cung ứng, sản xuất các linh kiện, sản phẩm thô có thể kìm hãm sự phát triển của các công ty nội địa sử dụng các nguyên liệu đó để tạo ra, phân phối, bán sản phẩm cuối cùng tới tay khách hàng. Một nghiên cứu khác của Newman và cộng sự năm 2015, được đăng ở European Economic Review, một tạp chí khoa học kinh tế rất uy tín, cho thấy, FDI theo chiều ngang có tác động tiêu cực ở Việt Nam. Theo đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài góp phần giảm năng suất của các doanh nghiệp cùng ngành. Các kết quả tương tự cũng tìm thấy ở các nước đang phát triển tương tự như Việt Nam như Maroc (Haddad & Harrison, 1993), Uruguay (Kokko và cộng sự, 1996), các nước Đông Âu (Jude, 2012)

Có nên “thoát li” khỏi FDI? 

Nghiên cứu của hai tác giả Nguyễn Hữu Thành Tâm và Phạm Ngọc Sáng vào năm 2024 cho thấy rằng, ngay cả khi không có FDI, một quốc gia cũng có thể thúc đẩy đổi mới sáng tạo (nếu năng lực sáng tạo và hiệu quả đầu tư vào R&D đủ cao). Sự phát triển nhanh chóng của các công ty công nghệ trí tuệ nhân tạo ở Trung Quốc là một minh chứng cho lập luận này. 

Chúng tôi cho rằng, FDI vẫn sẽ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam trong tương lai. Mặc dù kết quả của những nghiên cứu dường như đều không đánh giá cao ý nghĩa của FDI trong nền kinh tế của nước sở tại, nhưng vẫn có những “khe cửa hẹp” mà Việt Nam nên tận dụng cơ hội để lách qua. 

Mặc dù bằng chứng thực nghiệm cho thấy FDI thượng nguồn tác động tiêu cực tới doanh nghiệp hạ nguồn trong nước, nhưng FDI hạ nguồn lại có ảnh hưởng tích cực tới các nhà cung cấp thượng nguồn trong nước. Các FDI này chủ yếu là các doanh nghiệp FDI liên doanh. Hơn nữa, FDI đúng là ít ý nghĩa hơn đối các nước thu nhập trung bình cao nhưng lại có vai trò tích cực với các quốc gia phát triển. Đã có bằng chứng về việc FDI đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp cùng lĩnh vực ở các nước như Ireland (nghiên cứu của Ruane và Ugur, 2005), Vương quốc Anh (Haskel và cộng sự, 2007) và Mỹ (nghiên cứu của Keller và Yeaple, 2009). Lí do không hẳn nằm ở tiềm lực kinh tế, mà nằm ở trình độ nhân lực và quản trị của các nước này cho phép doanh nghiệp trong nước có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài, và, mặt khác, có thể học hỏi được tốt hơn (dù là rất khó) công nghệ của các doanh nghiệp FDI này. Một số nghiên cứu cho thấy tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế của nước sở tại có đáng kể hay không phụ thuộc vào các điều kiện của nước sở tại như vốn nhân lực (Borensztein và cộng sự, 1998; Li & Liu, 2005), sự phát triển của thị trường tài chính (Alfaro et al., 2004, 2010), chất lượng thể chế (Jude & Levieug, 2017).

Chặng đường thu hút “đại bàng” của Việt Nam trong gần 40 năm qua có nhiều tiếc nuối, nhưng cũng có những bài học tích cực. Theo Báo cáo tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 20245, vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu đến từ Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng  Kông, Nhật Bản, Đài Loan. Cũng theo báo cáo này, cơ cấu theo ngành của tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký là 66,9% trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, 16,5% trong ngành kinh doanh bất động sản, và 3,3% trong các hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ.  Trong 3.3% ít ỏi đó, ngành điện tử, viễn thông là điểm sáng trong tác động của FDI đối với các doanh nghiệp trong nước ở Việt Nam. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, tương quan giữa sản lượng doanh nghiệp nước ngoài và trong nước trong giai đoạn 2000–2016. Chúng ta thấy rằng trong đoạn 2000-2010, sản xuất của các ngành sản xuất máy tính (hình a), tivi, radio và phương tiện truyền thông (hình b), linh kiện điện tử (hình c) hoàn toàn phụ thuộc vào các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, kể từ năm 2011, các doanh nghiệp trong nước đã bắt đầu đi vào sản xuất. Thậm chí kể từ năm 2012, sản xuất của các doanh nghiệp trong nước trở nên vượt trội so với các doanh nghiệp nước ngoài. Cần lưu ý thêm các sản phẩm này cũng đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Thậm chí, theo Tổng cục Thống kê, điện tử máy tính và linh kiện là nhóm hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Năm 2024, giá trị xuất khẩu của nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện đạt 72,6 tỷ USD, chiếm 17,9% tổng kim ngạch xuất khẩu.6 Một số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng FDI góp phần cải thiện năng suất tổng hợp – một chỉ số gián tiếp đo lường mức độ đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp trong nước (xem  Newman et al. (2015) ; chương 2 của Le (2021)).







Hình a, b, c (từ trên xuống): Giá trị gia tăng của sản phẩm nội địa và nước ngoài trong các ngành sản xuất linh kiện máy tính; sản xuất thiết bị radio, TV và truyền thông; sản xuất linh kiện điện tử.

Khi nghiên cứu về tăng trưởng tối ưu trong một nước nhận FDI, chúng tôi nhận thấy rằng: khi nền kinh tế còn chưa phát triển, một quốc gia chưa thể tập trung đầu tư ngay vào nghiên cứu phát triển (R&D) để tạo ra công nghệ mới (vì chi phí cố định cho R&D quá cao). Trong trường hợp này, FDI có thể giúp quốc gia đó phát triển kinh tế và tích lũy vốn (vốn vật chất và vốn con người). Sau đó khi nước này đạt đến một mức phát triển nhất định và tích lũy đủ vốn, họ phải tập trung vào ĐMST thay vì thu hút FDI, và đây là cách duy nhất để đạt được tăng trưởng kinh tế cao trong dài hạn.  Trên thực tế, đây vẫn là con đường hấp dẫn với nhiều quốc gia để hấp thụ các kĩ nghệ mới: cả các nước phát triển lẫn đang phát triển vẫn đang cạnh tranh nhau để thu hút FDI.

Nếu Việt Nam muốn theo con đường này, cần phải thay đổi tư duy về FDI. Thu hút FDI bằng mọi giá và để nền kinh tế phụ thuộc đáng kể vào FDI không còn là lựa chọn phù hợp trong giai đoạn mới. Việt Nam cần phải làm sao để hướng FDI vào việc giúp Việt Nam phát triển đổi mới sáng tạo, nghiên cứu phát triển, gia tăng kết nối với doanh nghiệp trong nước. 

Việt Nam cần phải chọn lọc trong ưu đãi dành cho FDI, chỉ nên tập trung vào một số các lĩnh vực ưu tiên (ví dụ kinh tế số, năng lượng tái tạo và các lĩnh vực liên quan đến đổi mới sáng tạo và hàm lượng R&D cao). FDI hiện tại vào Việt Nam không mang theo công nghệ cao và hiện đại. Tại sao ta nên chào đón những công nghệ lạc hậu? Nếu ta muốn vươn lên hàng đầu, thì cũng phải đầu tư và có tầm nhìn tương xứng. Việt Nam cũng cần tăng cường giám sát và đánh giá hiệu quả dự án FDI để có thể linh hoạt các chính sách liên quan đến FDI, trong bối cảnh thay đổi nhanh của nền kinh tế thế giới.


Việt Nam cần phải làm sao để hướng FDI vào việc giúp Việt Nam phát triển đổi mới sáng tạo, nghiên cứu phát triển, gia tăng kết nối với doanh nghiệp trong nước. 

Không thoát li FDI nhưng Việt Nam không nên phụ thuộc quá nhiều vào thu hút vốn từ nước ngoài, vì như vậy quá rủi ro kinh tế (ví dụ khi những doanh nghiệp này dời sang quốc gia khác có lợi thế so sánh hơn so với Việt Nam). Cần tăng sức mạnh nội lực bằng cách nâng cao năng lực công nghệ và khả năng quản trị của các doanh nghiệp trong nước. Môi trường đầu tư cần được cải thiện, đảm bảo cạnh tranh công bằng giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước. Nếu như trước đây, cùng một lĩnh vực, FDI được “ưu ái” nhiều hơn các doanh nghiệp trong nước, thì giờ đây chính sách này cần thay đổi. Nếu doanh nghiệp trong nước đầu tư vào các lĩnh vực chính phủ ưu tiên thì họ cũng cần phải được hưởng các ưu đãi không thua kém gì các doanh nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó, cần có những chính sách phát triển hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ trong nước, phát triển các ngành nghề cung cấp nguyên liệu sản xuất trong nước, giúp tăng hiệu ứng lan tỏa, nâng cao liên kết giữa doanh nghiệp FDI – doanh nghiệp trong nước, và nâng cao chuỗi giá trị hàng Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Cuối cùng, quan trọng nhất đó là cần đầu tư vào nguồn nhân lực, không ngừng phát triển giáo dục đại học và sau đại học (ưu tiên các ngành STEM), nghiên cứu, đổi mới sáng tạo để chủ động thích ứng với yêu cầu của trong nước và thế giới. □

————-

Nguyễn Hữu Thành Tâm, PGS tại Métis Lab, EM Normandie Business School. Email: tnguyenhuu@em-normandie.fr 

Nguyễn Văn Phú, nhà nghiên cứu tại EconomiX, CNRS & University of Paris Nanterre, Nanterre. Email: pnguyenvan@parisnanterre.fr

Phạm Ngọc Sáng, GS tại Métis Lab, EM Normandie Business School, and EconomiX, CNRS & University of Paris Nanterre. Emails: pns.pham@gmail.com, npham@em-normandie.fr

Chú thích: 

Xem https://ipcs.mpi.gov.vn/bao-cao-tinh-hinh-thu-hut-dau-tu-nuoc-ngoai-tai-viet-nam-nam-2024/

2Xem: https://laodong.vn/kinh-doanh/nhieu-doanh-nghiep-fdi-van-su-dung-cong-nghe-lac-hau-1047351.ldo 

3 Xem : https://kinhtevadubao.vn/hoat-dong-chuyen-gia-cua-cac-doanh-nghiep-fdi-tai-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap-30474.html 

4 Về tác động lan tỏa FDI theo chiều dọc, xem thêm Newman và cộng sự (2015) cho trường hợp của Việt Nam, Lu và cộng sự (2017) cho Trung Quốc, và Gorodnichenko và cộng sự (2014) cho 17 quốc gia chuyển đổi ở Châu Âu.

5 Xem : https://ipcs.mpi.gov.vn/bao-cao-tinh-hinh-thu-hut-dau-tu-nuoc-ngoai-tai-viet-nam-nam-2024/ 

6Xem : https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/01/buc-tranh-xuat-nhap-khau-hang-hoa-cua-viet-nam-nam-2024-phuc-hoi-phat-trien-va-nhung-ky-luc-moi/

Tài liệu tham khảo: 

Alfaro, L., Chanda, A., Kalemli‐Ozcan, S., & Sayek, S. (2004). FDI and economic growth: The role of local financial markets. Journal of International Economics, 64(1), 89–112. https://doi.org/10.1016/S0022-1996(03)00081-3 

Alfaro, L., Chanda, A., Kalemli‐Ozcan, S., & Sayek, S. (2010). Does foreign direct investment promote growth? Exploring the role of financial markets on linkages. Journal of Development Economics, 91(2), 242–256. https://doi.org/10.1016/j.jdeveco.2009.09.004 

Baiashvili, T. & Gattini, L. (2010) Impact of FDI on economic growth: The role of country income levels and institutional strength. EIB Working Paper 2020/02. 

Benetrix, A., Pallan, H.M. & Panizza, U. G. (2023) The Elusive Link Between FDI and Economic Growth. Policy Research Working Paper Series 10422, The World Bank, April 2023.

Borensztein, E., De Gregorio, J., & Lee, J.‐W. (1998). How does foreign direct investment affect economic growth? Journal of International Economics, 45(1), 115–135. https://doi.org/10.1016/S0022-1996(97)00033-0 

Carkovic, M., & Levine, R. (2005). Does foreign direct investment accelerate economic growth? In T. H. Moran, Graham, & M. Blomstrom (Eds.), Does foreign direct investment promote development? (pp. 1341–1393). PIIE.

Gorodnichenko, Y., Svejnar, J., & Terrell, K. (2014). When does FDI have positive spillovers? Evidence from 17 transition market economies. Journal of Comparative Economics, 42(4), 954–969. https://doi.org/10.1016/j. jce.2014.08.003

Gunby, P., Jin, Y., Reed, W. R. (2017). Did FDI Really Cause Chinese Economic Growth? A Meta-Analysis. World Development, 90(C):242–255, 2017. doi: 10.1016/j.worlddev.2016.1

Haskel, J. E., Pereira, S. C., & Slaughter, M. J. (2007). Does inward foreign direct investment boost the productivity of domestic firms. The Review of Economics and Statistics, 89(3), 482–496. https://doi.org/10. 1162/rest.89.3.482 

Jude, C., Levieuge, G. (2017). Growth Effect of Foreign Direct Investment in Developing Economies: The Role of Institutional Quality, the World Economy, Volume 40, Issue4, April 2017, Pages 715-742.

Keller, W., & Yeaple, S. R. (2009). Multinational enterprises, international trade, and productivity growth: Firm‐ level evidence from the United States. The Review of Economics and Statistics, 91(4), 821–831. https://doi. org/10.1162/rest.91.4.821

Lê BảoThy (2021). Essays on Foreign Direct Investment : Firm Productivity, Regional Externalities, and Resource Curse. PhD dissertation, University of Strasbourg.

Lê Văn Cường, Nguyễn Hữu Thành Tâm, Nguyễn Văn Phú, Phạm Ngọc Sáng. Đổi mới sáng tạo để thoát bẫy nghèo khó, bẫy thu nhập trung bình và bẫy tăng trưởng trung bình?. 2025. ⟨hal-05158494⟩

Li, X., & Liu, X. (2005). Foreign direct investment and economic growth: An increasingly endogenous relationship. World Development, 33(3), 393–407. https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2004.11.001 

Lu, Y., Tao, Z., & Zhu, L. (2017). Identifying FDI spillovers. Journal of International Economics, 107, 75–90. https://doi.org/10.1016/j.jinteco.2017.01.006 

Newman, C., Rand, J., Talbot, T., & Tarp, F. (2015). Technology transfers, foreign investment and productivity spillovers. European Economic Review, 76, 168–187.

Nguyen-Huu, T.T., Pham N.-S. (2024) FDI spillovers, New Industry Development, and Economic Growth. Journal of Public Economic Theory, Volume26, Issue1 February 2024, e12670.

Nguyen-Huu, T.T., Pham N.-S. (2025) The role of FDI along transitional dynamics of the host country in an endogenous growth model. arXiv:2501.12010

Ruane, F., & Ugur, A. (2005). Foreign direct investment and productivity spillovers in Irish manufacturing industry: Evidence from plant level panel data. International Journal of the Economics of Business, 12(1), 53–66. https://doi.org/10.1080/1357151042000323139

Bài đăng Tia Sáng số 17/2025

Tác giả

(Visited 17 times, 17 visits today)