Một nền giáo dục tốt không thể phụ thuộc vào học thêm

Việc Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) ban hành Thông tư 29 tháng 12/2024 với hiệu lực từ tháng 2/2025 lại làm nổi lên những cuộc tranh luận không hồi kết về chuyện học thêm và dạy thêm.

Học thêm không đồng nghĩa với việc tăng cao vốn từ hay kỹ năng toán học của trẻ em. Ảnh: Shutterstock.

Học thêm có khiến các em “giỏi” hơn? 

Sử dụng dữ liệu từ hơn 3.000 học sinh Lớp 5 năm học 2011-2012, nghiên cứu của tôi đặt ra câu hỏi về vai trò và hiệu quả của việc học thêm trong hệ thống giáo dục Việt Nam. Tôi so sánh điểm của các em học sinh trong hai bài kiểm tra: bài kiểm tra một tiết do giáo viên chủ nhiệm chấm và ra đề và một bài kiểm tra chuẩn hóa độc lập đến từ dự án Những cuộc đời trẻ thơ (tên tiếng Anh là Young Lives) do Đại học Oxford, Anh quốc chủ trì cho hai môn Toán và Tiếng Việt. Bài kiểm tra độc lập này được thực hiện hai lần trong năm học 2011-2012, một lần vào đầu năm học (tháng 10-12/2011) và lần sau vào cuối năm học (tháng 4-5/2012). Để đảm bảo một “không khí nghiêm túc” như các kì thi thông thường, ban khảo sát làm việc với 92 trường tiểu học, ở 176 lớp ở năm tỉnh, thành phố ở Việt Nam, mỗi lớp chọn ngẫu nhiên 20 em học sinh. Bài kiểm tra này cũng đính kèm một phần câu hỏi cơ bản về tuổi, giới tính, tình trạng học thêm, điều kiện gia đình, bố mẹ. Kết quả cho thấy, trên cùng một nền tảng và điều kiện gia đình, những em đi học thêm đạt điểm kiểm tra trên lớp cao hơn so với những em không học thêm. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể trong bài kiểm tra chuẩn hóa độc lập. Điều này chứng tỏ, việc học thêm tập trung vào học thuộc lòng và luyện đề “tủ”, thay vì nâng cao kiến thức và tư duy thực chất.

Một vài nghiên cứu khác ở trẻ 8 tuổi ở Việt Nam như của TS. Trần Thu Hà, Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Phát triển Cộng đồng (RTCCD) cùng cộng sự và của TS. Lê Thúc Dục cùng Bob Baulch (đều sử dụng dữ liệu từ dự án Young Lives) cũng chỉ ra kết quả tương tự, khẳng định việc học thêm không đồng nghĩa với việc tăng cao vốn từ hay kỹ năng toán học của trẻ em. Sự khác biệt giữa điểm số trên lớp và điểm thi chuẩn hóa cho thấy sự thiếu minh bạch và tiêu cực trong hệ thống đánh giá học tập.

Nâng cao kỹ năng, học vấn là nhu cầu chính đáng. Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất giữa tình trạng dạy thêm ở Việt Nam so với các nước khác là việc giáo viên chính khóa đồng thời cũng là người trực tiếp dạy thêm cho học sinh của mình, rất khó tránh khỏi xung đột lợi ích. Giáo viên nắm quyền ra đề, chấm điểm, do đó họ có thể lợi dụng quyền lực để ép học sinh học thêm với mình.

Thể chế quản lý lỏng lẻo và thiếu trách nhiệm giải trình góp phần tạo điều kiện cho giáo viên lạm quyền. Điều này dẫn đến nguy cơ xảy ra tình trạng thiếu minh bạch, khi giáo viên có thể gây áp lực buộc phụ huynh cho con học thêm, hoặc ưu ái những học sinh có đi học thêm. Đồng thời, việc giáo viên cố tình dạy thiếu chương trình chính khóa để học sinh phải tham gia học thêm sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng giáo dục công.


Điểm khác biệt lớn nhất giữa tình trạng dạy thêm ở Việt Nam so với các nước khác là việc giáo viên chính khóa đồng thời cũng là người trực tiếp dạy thêm cho học sinh của mình, rất khó tránh khỏi xung đột lợi ích.

Những tiêu cực này cũng phần nào được tiết lộ trong nghiên cứu của tôi. Việc học thêm hay không có tác động đến cách các em nhìn nhận năng lực của mình. Qua một năm học, các em học thêm cảm thấy mình tự tin về khả năng học tập của mình hơn, kể cả khi các em không cho rằng mình nỗ lực nhiều hơn trong học tập. Ngược lại, những em không tham gia học thêm cảm thấy bớt tự tin về khả năng của mình. Sự tự nhìn nhận này phần nào phản ánh tương tác của học sinh với giáo viên và bạn bè.  

Không dừng lại ở đó, học sinh đi học thêm từ tiểu học sẽ có khả năng đậu vào Lớp 10 cao hơn khoảng 7%. Tác động của việc học thêm lên sự tự tin và thành tích trong dài hạn có thể được giải thích bởi thứ hạng của học sinh trong lớp. Các em không tham gia học thêm có thể cảm thấy bị áp lực từ thầy cô và bạn bè, dẫn đến giảm động lực và kết quả học tập, gây bất lợi trong kỳ tuyển sinh vào Lớp 10.

Nhu cầu học thêm, dạy thêm từ đâu mà ra? 

Nhu cầu học thêm, dạy thêm xuất phát từ nhiều động lực khác nhau. Đầu tiên phải kể đến các yếu tố văn hóa, truyền thống nhấn mạnh vào thành công và thứ hạng, vốn khá phổ biến ở các nước châu Á. Ngay những nước phát triển trong khu vực như Nhật, Hàn, khoảng 50-80% học sinh tiểu học phải gồng mình lên chạy sô học thêm (theo Yamato và Zhang, 2017; Y. Ha và Park, 2017). 

Điều này cũng đúng với hệ thống giáo dục Việt Nam vốn có nhiều kỳ thi mang tính cạnh tranh cao (như thi cuối cấp, thi đầu vào). Bởi vậy, kể cả khi biết rằng học thêm không giúp nâng cao năng lực của con mình, phụ huynh vẫn “đổ xô” vào các lớp học thêm vì lo sợ con mình trượt các kỳ thi và không đạt bằng cấp tốt. Nỗi lo sợ đó là chính đáng, vì nó không chỉ ảnh hưởng đến con đường học vấn mà thậm chí có thể cả “số phận” của các em sau này. Từ năm 2005, kỳ thi tốt nghiệp tiểu học đã bị bãi bỏ ở Việt Nam. Tuy nhiên, điểm trung bình và thành tích học tập vẫn đóng vai trò quyết định danh tiếng và chất lượng của trường mà học sinh có thể vào học ở bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông. Nó cũng cho thấy hệ thống giáo dục và thị trường lao động ở Việt Nam đang bị chi phối phần nào bởi những kết quả ảo, điểm số bị thổi phồng để đánh giá con người. Điều này càng tạo ra bất công với những học sinh hoàn cảnh khó khăn, không có điều kiện đi học thêm, không thể cạnh tranh một cách công bằng.

Nếu phụ huynh có nhu cầu gửi con đi học thêm, thì đó nên là các hoạt động phát triển kỹ năng như mỹ thuật, âm nhạc, thể thao, giúp các em phát triển toàn diện. Ảnh: Shutterstock.

Ở một khía cạnh khác, hệ thống trường công không đáp ứng được mong muốn của phụ huynh khi chương trình giáo dục còn nhiều bất cập, hạn chế cả về chất và lượng. So với những nước đang phát triển khác như Ấn Độ, Peru hay Ethiopia, thời lượng học chính khóa của học sinh Việt Nam ít hơn đáng kể. Chỉ một bộ phận nhỏ trẻ em ở Việt Nam được đi học cả ngày, đa số còn lại chỉ đến trường một buổi. Thay vào đó, các em dành nhiều thời gian tự học ở nhà hoặc học thêm. Ngay cả với trường hợp học bán trú thì lớp học thường kết thúc lúc bốn giờ chiều, gây khó khăn cho phụ huynh trong việc đưa đón, sắp xếp với giờ tan tầm vào lúc năm – sáu giờ. Thêm vào đó, không phải phụ huynh nào cũng đủ thời gian và năng lực để hỗ trợ con học tập. Bởi vậy, nhiều phụ huynh xem học thêm là giải pháp “hai trong một”: vừa củng cố kiến thức cho con, vừa thay thế dịch vụ trông trẻ. Thực tế, phụ huynh Việt Nam phải trả một chi phí khá cao cho học thêm so với các nước nói trên: gấp 10 lần ở bậc tiểu học và tăng đến gấp 40 lần ở bậc trung học phổ thông.Tiền học thêm chiếm hơn 50% các chi phí giáo dục và 4% các chi phí phi thực phẩm của một hộ gia đình trung bình ở Việt Nam.  

Yếu tố cuối cùng và cũng rất then chốt, chính là nhu cầu dạy thêm từ phía giáo viên. Mức lương thấp buộc họ phải tìm kiếm nguồn thu nhập bổ sung. Cũng theo số liệu từ khảo sát Những cuộc đời trẻ thơ, chỉ khoảng hơn 10% giáo viên chủ nhiệm được phỏng vấn báo cáo có dạy thêm để tăng thêm thu nhập – một con số ít hơn nhiều so với thực tế diễn ra. Khoảng trống dữ liệu này cho thấy đây là chủ đề nhạy cảm, là “vùng xám” mà các thầy cô né tránh nói tới. Đồng thời, hệ thống đánh giá thành tích dựa trên kết quả học sinh, một phần của “bệnh thành tích”, cũng thúc đẩy việc dạy thêm. Khi học sinh đạt kết quả học tập cao, cả giáo viên và nhà trường đều được khen thưởng. Vấn đề không xuất phát từ cá nhân hay một nhóm nào, mà từ cả hệ thống giáo dục và là gốc rễ của vấn đề. 


Yếu tố cuối cùng và cũng rất then chốt, chính là nhu cầu dạy thêm từ phía giáo viên. Mức lương thấp buộc họ phải tìm kiếm nguồn thu nhập bổ sung.

Quy định mới chỉ là bước đầu tiên

Thông tư 29 không phải là lần đầu tiên Bộ GD&ĐT muốn siết chặt quản lý học thêm, dạy thêm. Trước đó, Bộ cũng đã có quyết định số 3/2007 và Thông tư số 17/2012 liên quan đến vấn đề này. Những động thái này cho thấy rằng chính phủ nhận thức được mức độ nghiêm trọng và phổ biển của “cái bóng trong hệ thống giáo dục” nhưng các nỗ lực thực thi cho đến nay vẫn yếu ớt. 

Điều mới ở thông tư lần này là quy định chặt chẽ hơn, cũng như có chủ trương thực thi nghiêm túc hơn. Trong đó, văn bản này cấm dạy thêm cho học sinh tiểu học, trừ các lớp năng khiếu và kĩ năng sống và không cho phép giáo viên dạy thêm cho chính học sinh của mình. Trên lý thuyết, hai điểm này là hợp lí. Nếu phụ huynh có nhu cầu gửi con đi học thêm, thì đó nên là các hoạt động phát triển kỹ năng như mỹ thuật, âm nhạc, thể thao, giúp các em phát triển toàn diện thay vì học “vẹt”, nhai lại chương trình trên trường. Hơn nữa, giáo viên không dạy thêm cho học sinh mình dạy chính khóa là đảm bảo minh bạch và công bằng trong giáo dục. 

Tuy nhiên, trên thực tế, kể cả thực thi mạnh mẽ, thông tư này chưa chắc đã đạt hiệu quả như mong muốn vì những vấn đề của hệ thống giáo dục vẫn còn đó. Như đã đề cập ở trên, một phần phụ huynh cho con em đi học thêm vì chương trình giáo dục chính khóa còn nhiều hạn chế, ví dụ như nội dung học quá tải nhưng thời gian học trên trường lại quá ngắn, hoặc gia đình không có điều kiện để đưa đón, theo sát quản lý trẻ. Mặt khác, với cơ sở vật chất và nguồn lực hạn chế, đại đa số các trường công lập không thể tổ chức câu lạc bộ thể thao nghệ thuật hay các kĩ năng khác cho toàn bộ học sinh sau giờ học. Thiết nghĩ, Bộ GD&ĐT cần đưa ra những giải pháp sát với thực tế hơn, như thiết kế khung giờ học phù hợp với giờ đưa đón của phụ huynh, phân bổ thêm ngân sách đảm bảo các trường có thể tổ chức học hai buổi, tổ chức được các hoạt động ngoại khóa. Một hệ thống giáo dục tốt cần thiết kế chương trình sao cho thời gian học chính khóa đảm bảo cho học sinh tiếp thu kiến thức đầy đủ mà không cần phải đi học thêm.


Việc cấm nhà trường thu phí dạy phụ đạo, dạy bồi dưỡng và dạy ôn thi cho học sinh cuối cấp cũng là một điểm quan trọng để đảm bảo các hoạt động này được thực hiện trên tinh thần vì lợi ích của học sinh, không bị chi phối bởi mục tiêu lợi nhuận.

Ngoài ra, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, cần các giải pháp mang tính hệ thống. Tăng lương cho giáo viên là một trong những giải pháp then chốt. Khi áp lực tài chính giảm bớt, giáo viên sẽ tập trung vào giảng dạy chính khóa, giúp kết quả học tập phản ánh đúng năng lực học sinh. Một số phụ huynh lo ngại rằng nếu không học thêm với thầy cô trên lớp, con sẽ không biết học ai, rồi chi phí dịch vụ từ các trung tâm dạy thêm sẽ cao lên. Tôi cho rằng điều này không hợp lý. Có cung ắt sẽ có cầu. Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, tôi tin rằng môi trường cạnh tranh sẽ giữ giá ở mức hợp lý. Tuy nhiên, để đảm bảo điều này, các cấp quản lý cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở trung tâm và các câu lạc bộ. Việc đơn giản hóa quy trình thành lập, giảm yêu cầu vốn đầu tư và tạo môi trường pháp lý minh bạch sẽ khuyến khích nhiều cá nhân và tổ chức tham gia thị trường, tạo ra cạnh tranh lành mạnh. Điều này cũng sẽ góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa các hình thức dạy học, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của học sinh và phụ huynh. Tuy vậy, luôn cần phải nhắc lại rằng, dạy thêm chỉ nên là phần hỗ trợ. Không nền giáo dục nào cần phải phụ thuộc vào dạy thêm, học thêm. 

Cuối cùng, cần phải phân biệt giữa dạy thêm trong và ngoài nhà trường. Những hoạt động do nhà trường tổ chức như dạy phụ đạo học sinh học lực kém và bồi dưỡng cho học sinh giỏi là một phần trách nhiệm của nhà trường, không nên bị gộp chung vào khái niệm dạy thêm thông thường. Việc cấm nhà trường thu phí dạy phụ đạo, dạy bồi dưỡng và dạy ôn thi cho học sinh cuối cấp cũng là một điểm quan trọng để đảm bảo các hoạt động này được thực hiện trên tinh thần vì lợi ích của học sinh, không bị chi phối bởi mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên, để các hoạt động hỗ trợ hiệu quả, cần có cơ chế đảm bảo chất lượng giảng dạy và hướng dẫn triển khai cụ thể hơn từ Bộ GD&ĐT và các cấp quản lý. Trong thời gian đầu mới triển khai thực hiện sẽ không tránh khỏi nhiều vướng mắc, đặc biệt là với những học sinh cuối cấp đang gấp rút ôn luyện. Nếu thực hiện tốt, đây có thể là giải pháp bổ trợ hiệu quả, giúp học sinh học tập tốt hơn mà không cần đến hệ thống dạy thêm ngoài luồng.□

———

*Tác giả là Tiến sĩ, hiện đang làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu và Phân tích về Di cư, Khoa kinh tế, University College London, Anh. 

Tài liệu tham khảo

Ha, Tran Thu, Tran Tuan, Trudy Harpham, Pham Thi Lan, Tran Duc Thach, Sharon Huttly, and Anne Mccoy. 2005. “Extra Classes and Learning Outcomes of Eight-Year-Old Children in Vietnam.” Young Lives Working Paper No. 29.

Ha, Yeojin, and Hyun-Jeong Park. 2017. “Can After-School Programs and Private Tutoring Help Improve Students’ Achievement? Revisiting the Effects in Korean Secondary Schools.” Asia Pacific Education Review 18 (1): 65–79.

Huynh, Quynh. 2024. “Paying (and Paving) my way: Extra-class participation and rent extraction.” Labour Economics 91: 102616.

Le, Duc T., and Bob Baulch. 2012. “Do Extra Classes Improve Cognitive Test Scores? – Evidence from Vietnam.” Young Lives Working Paper No. 87.

Yamato, Yoko, and Wei Zhang. 2017. “Changing Schooling, Changing Shadow: Shapes and Functions of Juku in Japan.” Asia Pacific Journal of Education 37 (3): 329–43.

Bài đăng Tia Sáng số 5/2025

Tác giả

(Visited 139 times, 1 visits today)