Trách nhiệm của người có học khi phát biểu
Gần đây, trên báo chí của Việt Nam liên tục xuất hiện các phỏng vấn, kêu gọi, giao lưu và thảo luận mang tính quốc gia với những người có học hàm học vị, mà nổi bật nhất là với tiến sỹ Vũ Minh Khương (tốt nghiệp ĐH Harvard - Mỹ) về các vấn đề như cải cách giáo dục, phát triển kinh tế, đánh giá cán bộ, kêu gọi thanh niên, thời cơ quốc gia... (cụ thể, xin xem trên website của Vietnamnet và Tuổi Trẻ trong thời gian qua và xem buổi giao lưu nhân dịp Tết của Vietnamnet với tiến sỹ Khương). Đây là những vấn đề quan trọng; nhưng theo dõi những bài phát biểu của tiến sỹ Vũ Minh Khương, tôi nhận thấy rất nhiều phát biểu và hô hào của anh thật là vô nghĩa và lẽ ra không nên được thổi phồng trên quy mô quốc gia, vì chúng có thể đưa đến những nhận thức lệch lạc cho công chúng. Bài viết này trình bày một vài suy nghĩ của tôi về trách nhiệm của người có học khi phát biểu về các vấn đề xã hội trước công chúng
Một ví dụ cụ thể cần phải được báo động là việc tiến sỹ Vũ Minh Khương liên tục phát biểu những lời hết sức thiếu khoa học và những hô hào vô nghĩa trên nhiều báo chí cả nước trong thời gian qua. Bài mới nhất của anh về Tầm vóc dân tộc và công cuộc phát triển (đăng trên Vietnamnet, ngày 5-1-2006) là một ví dụ điển hình. Ở bài này, anh cho rằng tầm vóc dân tộc là yếu tố sống còn cho phát triển, và tầm vóc dân tộc bao gồm (1) khát vọng dân tộc, (2) tầm nhìn và tư duy, (3) tâm huyết và tài năng của những đội ngũ trụ cột, (4) tinh thần học hỏi và hợp tác, và (5) đặc tính văn hóa. Phân tích cụ thể thì dài, tôi chỉ xin chỉ ra một ví dụ nhỏ, ngay từ phần đầu trong nhận định của anh.
Anh cho rằng khát vọng dân tộc là yếu tố rất quan trọng, dựa trên “nền tảng của lòng yêu nước, tính tự tôn dân tộc và ý thức trách nhiệm với thế hệ tương lai”. Nhưng không hiểu, những thứ này – ví dụ như tính tự tôn dân tộc – là đặc điểm trong mỗi cá thể hay là một thứ chung chung cho cả nước? Nếu là thứ chung chung cho cả Việt Nam thì anh tính nó bằng cách đem cộng tổng số khát vọng dân tộc của mỗi người Việt Nam lại hay thế nào? Ví dụ như nếu cần phải cải thiện khát vọng dân tộc thì cải thiện ở từng cá nhân hay ở đâu, làm thế nào? Nếu như khát vọng dân tộc là đặc tính di truyền cho mỗi nhóm người, thì còn bàn đến làm gì? Còn nếu có thể dùng đến giáo dục để nâng cao khát vọng dân tộc thì sao anh không nói thẳng luôn giáo dục là yếu tố sống còn của phát triển mà lại đi dùng một cái khái niệm trên ngọn cây và hết sức mơ hồ như thế kia?
Đứng về mặt xã hội, lối tư duy của anh nguy hiểm ở chỗ nó cứ hướng người ta tới một sự đua tranh ảo nào đó; rằng chúng ta phải cố mà lên được tầm này tầm khác, đứng hàng nọ hàng kia trong thế giới. Sao không nghĩ rằng chỉ cần chúng ta no ấm, đời sống con người văn minh là đủ, ở chỗ nào trong thế giới mà chả được? Sao không nghĩ rằng ở các nước khác, các nhà chính trị muốn làm gì thì làm, người dân chỉ chú trọng một điều là họ là người lao động tốt, sống có đạo đức, có sự chuyên nghiệp, họ làm cha làm mẹ một cách tử tế, cần gì biết đến chuyện nước họ đứng ở đâu? Sao không nghĩ rằng người ta thậm chí không cần đến cái tinh thần dân tộc một cách cục bộ; cái mà người ta cần là ý thức về sự làm người của mình, rằng dù sống ở Việt Nam hay ở Mỹ hay ở Nam Phi thì người ta cũng vẫn cần phải có những phẩm chất như nhau – ví dụ như sự trung thực và trách nhiệm trong lao động, lòng trắc ẩn với con người, sự dũng cảm và ham học hỏi… có những cái đó ở mỗi người thì tự khắc mọi việc sẽ tốt lên? Sao không nghĩ rằng chỉ có một thế giới chung mà lại cứ phải tách ra thành hai thế giới – Việt Nam và các nước còn lại? Sao không nghĩ rằng những thứ to tát trên không thể thay thế được trình độ lao động, nhận thức và tính chuyên nghiệp của người lao động?
Lẽ ra, thay vì kêu gọi thanh niên có lòng yêu nước, có ý chí dân tộc, phải biết vươn mình như Thánh Gióng, anh nên kêu gọi thanh niên học tập cho tốt, trở thành những người lao động lành nghề và có trách nhiệm. Có đội ngũ lao động như thế thì Việt Nam mới mong có thể thu hút đầu tư hay gia công xuất khẩu gì đó; chứ hiện nay trên thị trường Mỹ, đi đâu cũng chỉ thấy hàng gia công từ Trung Quốc, hoạ hoằn lắm mới thấy hàng gia công từ Việt Nam.
Lẽ ra, thay vì làm cho người ta có ảo tưởng rằng cả thế giới đang nhìn vào Việt Nam, rằng thời cơ Thánh Gióng đã đến với Việt Nam, anh nên nói một cách khách quan rằng thời cơ là cho tất cả thế giới và Việt Nam thực sự chỉ là một phần nhỏ trong cả thế giới; muốn đi lên thì cứ bình tĩnh mà cải tổ từng bước, đừng ảo tưởng vào sự lớn vụt hay vươn mình nào vì quán tính của cách suy nghĩ và tư duy cũ còn rất nặng nề tại Việt Nam – anh Khương chính là một đại diện tiêu biểu của lối tư duy “cán bộ Đoàn” đó mặc dù anh đã đi học ở Mỹ rất lâu.
Lẽ ra, thay vì phát biểu những điều to tát trên báo chí về phát triển kinh tế, về đánh giá cán bộ như thể chúng được đúc rút từ kinh nghiệm thực tế, anh nên nói rõ rằng chúng chỉ dựa trên lý thuyết trong trường học. Thế mà nguy hiểm là chúng lại tạo những ảo tưởng rất tai hại cho những người đọc trong nước, những người không có nhiều công cụ phân tích và ít được nghe các khái niệm to tát. Cụ thể là đọc những bài phản hồi của bạn đọc với các bài viết của anh trên báo Tuổi Trẻ và Vietnamnet, tôi rất lấy làm phiền lòng vì sự háo hức và ảo tưởng mà các bạn trẻ lây từ anh về một cuộc đổi đời, hoá rồng nhanh chóng nào đó chỉ bằng niềm tin và lòng nhiệt tình. Lẽ ra anh nên nói rằng cái cần nhất lúc này là lao động, lao động, và lao động. Là học lấy sự chuyên nghiệp và sự văn minh trong cư xử, từ cái nhỏ nhất trở đi chứ đừng mơ mộng hão huyền.
Lẽ ra…
Vài suy nghĩ về trách nhiệm của một người có học khi phát biểu trước công chúng
Xưa nay, người ta thường tin vào những người có bằng cấp, đã thành công, có quan hệ với người này người kia… nói theo thành ngữ Việt Nam là “miệng kẻ sang có gang có thép”. Ở Việt Nam, xã hội đang thay đổi mạnh nên có động thái “có bệnh thì vái tứ phương” mà không kịp tìm hiểu xem thày mình mời bốc thuốc là thày nào. Tâm lý này đưa đến sự tôn vinh không chính xác những thứ hào nhoáng giả vờ, như người có bằng tiến sỹ, giáo sư tại Mỹ, Việt kiều thành công ở nước ngoài, sinh viên giỏi ở nước ngoài… mà không biết thực chất những sự thành công và bằng cấp kia là thế nào.
Tôi nghĩ, càng được tin tưởng và có nhiều người nghe, người ta càng phải thận trọng và có trách nhiệm với các phát biểu của mình. Giả sử tôi viết tiểu thuyết, có ngớ ngẩn một tí thì chắc cũng không chết ai; nhưng nếu triển khai một chính sách sai thì cái hại không biết đâu mà lường. Tạo ra một ảo tưởng sai cho một đám đông thì cái hại cũng không biết bao giờ mới sửa được.
Trừ những ngành khoa học kỹ thuật như toán, lý, hóa, tin học, y học, dược học, cơ khí… – những ngành mà phạm vi áp dụng của nó khá tương đồng giữa Mỹ và Việt Nam, theo tôi, các ngành khoa học xã hội đòi hỏi người làm chính sách hoặc xây dựng lý thuyết phải có thời gian tìm hiểu thực tế và sống trong môi trường thực tế chứ không chỉ nói chung chung trên các lý thuyết, nhất là lý thuyết học từ nước ngoài – trừ khi anh là thiên tài có khả năng tư duy trừu tượng rất cao, điều mà tôi nghi ngờ ở những người Việt Nam sang Mỹ du học. Vì thế, việc phát biểu những điều to tát về chính sách hay về các phong trào xã hội là một điều một người có học nên hết sức thận trọng. Nếu có phát biểu, cần nêu rõ giới hạn những phát biểu của mình.
Chốt lại, tôi muốn nói rằng đừng nhìn thấy một người có học vị tiến sỹ ở Mỹ, dù ở trường nào, mà nhầm tưởng người đó có thể kinh bang tế thế. Xã hội nên thận trọng khi giao phó những bài toán lớn cho những người mới chỉ được chứng minh khả năng qua học vị tiến sỹ. Bản thân tôi, nếu có được hỏi phát biểu trên báo chí thì tôi chỉ trả lời các phỏng vấn về chuyện du học, về chuyện đời sống ở Mỹ…; chứ tuyệt nhiên ở thời điểm này và kể cả đến lúc lấy được bằng tiến sỹ, tôi sẽ không cho phép mình phát biểu bất cứ điều gì về chính sách xã hội ở Việt Nam. Đơn giản là tôi nghĩ tôi không có hiểu biết thực sự về các vấn đề xã hội khi mà tôi sang Mỹ đã 5 năm nay và từ lúc bắt đầu học về chính sách xã hội thì tôi chưa có lúc nào về Việt Nam để thực sự tìm hiểu mọi thứ trong khi xã hội Việt Nam đang thay đổi rất nhanh chóng. Lẽ dĩ nhiên, nếu phát biểu chỉ dựa trên lý thuyết được học tại trường thì tôi có thể nói tràng giang đại hải rất nhiều (và có lẽ với rất nhiều mỹ từ) về các loại chính sách xóa nghèo, chính sách phát triển cộng đồng, về các chính sách phúc lợi trẻ em, chính sách lao động, nhân tố nọ, nguồn lực kia, mô hình nọ, khái niệm kia; nhưng nói những điều lý thuyết sách vở đó là vô nghĩa và thiếu trách nhiệm.
Bản thân là người học qua chương trình thạc sỹ về truyền thông và cũng là người viết báo, tôi biết cái hạn chế của việc trình bày các vấn đề học thuật trên mặt báo cũng như những yếu tố khác nữa trong guồng máy sửa chữa, lên bài cho đúng chủ trương chính sách. Nhưng tôi thiết nghĩ, nguyên tắc của người làm khoa học là mỗi lời nói ra phải có ý nghĩa và phải có chất lượng cao nhất. Nghĩa là về tính chính xác, phát biểu đó phải chính xác ngang nhau khi nói với người đọc đại chúng trong nước hay trước một hội đồng các giáo sư, hay để nộp cho một tạp chí khoa học có uy tín trên thế giới. Ngôn ngữ, giọng điệu có thể khác, nhưng ý nghĩa của các nhận định thì phải như thể người ta đang phát biểu trước một hội đồng kiểm duyệt khắt khe nhất của những người có trình độ cao. Nếu nó không đạt được tính chính xác đó, thì tốt nhất là không nên nói. Im lặng không nói điều vô nghĩa cũng là một phẩm chất cần có của người có suy nghĩ vậy.