Văn hóa quản lý trong quản lý văn hóa
(Nhân đọc một số bài về quản lý nghệ thuật trong Tia Sáng số 13 tháng 7/2007)
Một cảnh trong phim: Vũ điệu tử thần |
Khi anh cảnh sát giao thông với súng bắn tốc độ trong tay, thật dễ dàng xác định chiếc xe chạy quá nhanh để thổi còi phạt. Còn người quản lý văn hóa khi nhìn nhận một bức tranh khỏa thân, một bức ảnh nuy liệu có dễ dàng phân định được cái ranh giới giữa nghệ thuật đích thực với mức độ “vi phạm thuần phong mỹ tục”, “khiêu dâm” không? Hay trong quyết định xử lý của mình sẽ có đầy những dấu hiệu chủ quan, cảm tình, cảm tính?
Đến như một tang vật để kết tội một bị cáo trước tòa, vị quan tòa cũng đâu có thể một mình khẳng định nó là chứng cứ chắc chắn, mà cần phải có hàng loạt hoạt động tố tụng, từ khâu thu thập, bảo quản, cho đến giám định hết sức nghiêm cẩn. Thế nên với một cuốn tiểu thuyết, làm sao có thể dễ đánh giá nó là “độc hại”, kích động bạo lực, hay xuyên tạc gì gì đó…, một khi chưa có sự thẩm định công khai của ít ra là một hội đồng nghệ thuật khách quan, có uy tín, chứ không phải bởi một vài cán bộ quản lý, dù có chức quyền tới đâu. Những khó khăn cho người quản lý ở đây thậm chí còn có thể đẩy họ tới việc sử dụng những lý do có tính biến báo nhỏ nhặt, mơ hồ, thiếu tính thuyết phục khác. Và thế là lại đụng tới cái “văn hóa quản lý” – không những không góp phần nâng đỡ, phát triển mà thậm chí còn vùi dập những con người tài năng đầy nhạy cảm và hoạt động sáng tạo rất cần sự khích lệ cảm hứng.
Một học viên cảnh sát không thể ra đường tự thực tập bắn súng, bắt bớ, khám xét. Thế nhưng vấn đề lại khác hẳn với những học viên trường nghệ thuật một khi muốn cọ sát với thực tế. Người quản lý văn hóa có nghĩ tới đời sống vật chất eo hẹp của họ, có thấy nhu cầu văn hóa đại chúng, có chịu nhìn nhận về điều kiện dạy và học thiếu thốn khó khăn tới mức nào… hay chỉ thấy chút mặt trái của cuộc sống có thể liên hệ nào đó tới họ khi va chạm với xã hội
Một tòa nhà xây trái quy định, bị “cắt ngọn” đi, thậm chí đập bỏ, thật là đơn giản. Thế nhưng một bức tường thành xưa, một bức tranh cổ quý giá được phục chế sai lạc hẳn với vẻ ban đầu của nó thì quả là một tai họa không thể nào cứu vãn nổi. Tệ hơn nữa như với Hòn Vọng phu, sản phẩm vô giá của tạo hóa bị đập đi, tiếp đến cái gọi là “phục chế” thật sự là một hành vi lú lẫn phản văn hóa. Những người cán bộ quản lý văn hóa luôn phải trực diện với những thách thức như vậy của lịch sử. Họ có đủ thẩm quyền, nhưng còn kiến thức pháp luật, và ý thức tới đâu rằng mình có đủ không vốn văn hóa, cái tầm viễn kiến, hay chí ít là chịu lắng nghe để đưa ra quyết định mà không gây phản tác dụng, tàn phá chính những gì mình đang có nhiệm vụ bảo vệ?
… Tất cả những kinh nghiệm va vấp ấu trĩ, hành xử thô bạo trong mọi hoạt động quản lý văn hóa là nhiều không thể kể hết. Hiện trạng xuống cấp, nghèo nàn, méo mó của môi trường văn hóa không thể thiếu nguyên nhân từ đó. Nó còn cho ta thấy ngoài những đòi hỏi phù hợp pháp lý trong một môi trường với hàng đống văn bản pháp luật còn sơ sài, chung chung, chồng chéo thì còn cả sự có hay không tính hợp lý, hợp đạo lý đầy tinh tế nữa. Chưa kể tính hai mặt – tốt/xấu, hay/dở – của mỗi hành vi cũng rất cần những người “cầm cân nảy mực” trong môi trường văn hóa biết cân nhắc trong sự công tâm, cầu thị, am hiểu.
Từ đây có thêm một dấu hỏi, là phải chăng cái khái niệm “quản lý văn hóa” đã mang một hàm ý vừa hẹp vừa cứng nhắc cũ kỹ cho một công việc hệ trọng là gìn giữ, phát huy vốn văn hóa của dân tộc và nhân loại? Nó cần được thay thế, ví như bằng cụm từ “phát triển văn hóa” chẳng hạn.
———-
* “Văn hóa”: Từ điển tiếng Việt, NXB Đà nẵng-Trung tâm Từ điển học, 1997; Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, 1998.