An toàn sinh học trong chăn nuôi: Giải pháp nền tảng chống lại dịch bệnh?
Các biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi đòi hỏi sự đầu tư rất lớn, hoặc có vaccine rồi thì an toàn sinh học không còn giá trị nữa, là những hiểu lầm phổ biến khiến cho dịch bệnh bùng phát ở nhiều trang trại chăn nuôi.

Trước khi dịch tả lợn châu Phi xuất hiện tại Việt Nam vào năm 2019, an toàn sinh học trong chăn nuôi không phải là một khái niệm thực sự quen thuộc bởi trước đó chúng ta thường sử dụng thuốc và vaccine để kiểm soát dịch bệnh. Tuy nhiên, khi dịch tả này bùng phát và khiến hàng triệu con lợn bị tiêu hủy, việc chưa có loại vaccine nào đủ hiệu quả và an toàn để bảo vệ đàn lợn vào lúc đó đã trở thành một vấn đề thực sự nghiêm trọng. “Chính vì thế, mọi người mới bắt đầu nói nhiều hơn về an toàn sinh học”, TS. Li Yin – nhà nghiên cứu tại Cơ quan Khoa học Quốc gia Úc (CSIRO) – nói với Báo KH&PT.
An toàn sinh học trong chăn nuôi, nếu xét về góc độ kỹ thuật, gồm có hai yếu tố chính là an toàn sinh học bên trong và an toàn sinh học bên ngoài. Trong đó, “bên trong” là tất cả những mức độ an toàn ở trong trang trại của người chăn nuôi, còn “bên ngoài” là những yếu tố như khoảng cách, người đến thăm chuồng trại, vị trí chuồng trại, hố khử trùng, theo PGS.TS Ngô Thị Kim Cúc – Phó Viện trưởng Viện Chăn nuôi Quốc gia (Bộ Nông nghiệp và Môi trường). Một trại chăn nuôi đảm bảo an toàn sinh học cần phải luôn luôn tuân thủ ba nguyên tắc cơ bản là: cách ly; vệ sinh và làm sạch, và khử trùng.
“Nếu thực hiện tốt an toàn sinh học, đầu tiên ta có được đàn lợn khỏe mạnh, thứ hai là hiệu quả chăn nuôi sẽ được tăng cao, thứ ba là đảm bảo được vấn đề về môi trường, và thứ tư là nâng cao được năng suất cũng như là chất lượng của sản phẩm”, PGS.TS Ngô Thị Kim Cúc nhận định. Chưa kể đến, khi thực hành tốt an toàn sinh học, chúng ta sẽ giảm được nguy cơ xâm nhập của mầm bệnh, từ đó giảm tỷ lệ nhiễm bệnh, hạn chế được việc phải dùng kháng sinh và cũng có thể giảm nguy cơ kháng kháng sinh (AMR), TS. Li Yin cho biết.
Vaccine không phải là câu trả lời duy nhất
Việt Nam đã nghiên cứu, sản xuất thành công và cấp giấy phép lưu hành thương mại cho nhiều loại vaccine trong chăn nuôi như vaccine lở mồm long móng, vaccine tả lợn châu Phi,… Những kết quả đáng mừng này khiến nhiều người đặt câu hỏi: vậy an toàn sinh học có vai trò như thế nào nếu đã có vaccine? “Tôi cho rằng có một sự hiểu lầm. Về cơ bản, vaccine là một phần của an toàn sinh học”, TS. Li Yin cho biết. “An toàn sinh học bao gồm rất nhiều thứ, giống như một hộp công cụ, và vaccine chỉ là một công cụ trong chiếc hộp đó”. Từ góc nhìn của nhà dịch tễ học này, các biện pháp an toàn sinh học vẫn luôn có giá trị ngay cả khi đã có vaccine, an toàn sinh học phải là điều cơ bản, là nền tảng cho sức khỏe động vật.
Trên thực tế, ở nhiều quốc gia như Úc, mặc dù có rất nhiều loại vaccine dành cho các bệnh khác nhau, nhưng họ không sử dụng tất cả, TS. Li Yin dẫn ví dụ. “Việc sử dụng vaccine có thể làm gián đoạn công tác giám sát dịch bệnh, ảnh hưởng đến phúc lợi động vật và tác động đến hoạt động nhập khẩu của các đối tác thương mại. Vì vậy, ở nhiều quốc gia, dù biết là có vaccine, người ta vẫn cố gắng không sử dụng, do nhiều nguyên nhân khác nhau”, ông cho biết.

Chưa kể đến, khi nhiều virus còn liên tục biến đổi và ảnh hưởng đến khả năng tạo miễn dịch của vaccine, việc chỉ dựa vào vaccine không phải là một giải pháp khôn ngoan. Theo chia sẻ của PGS. TS Lê Văn Phan – Phó Trưởng phòng Thí nghiệm trọng điểm công nghệ sinh học thú y, Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam tại một hội thảo năm 2024, một điều đáng lo ngại là những vaccine dịch tả lợn châu Phi hiện có ở Việt Nam cũng bất lực trước những chủng virus mới.
Nghiên cứu mới công bố1của PGS.TS Lê Văn Phan và các cộng sự cho thấy, hai loại vaccine đang có ở Việt Nam hiện nay không có khả năng bảo hộ đối với chủng virus lai giữa type I và type II. “Ngay cả khi con lợn từng mắc dịch tả lợn châu Phi và khỏi bệnh, đáp ứng miễn dịch rất cao, nếu gặp con virus lai này vẫn có thể mắc bệnh và chết như thường”, ông cho biết tại hội thảo “An toàn phát triển trong tình hình dịch tả lợn châu Phi (ASF) mới” vào năm ngoái.
Có lẽ đó cũng là lý do dù đã có vaccine, dịch tả nguy hiểm này vẫn đang tiếp tục gây thiệt hại nặng nề cho người chăn nuôi, làm gián đoạn chuỗi cung ứng và ảnh hưởng đến người tiêu dùng trên cả nước. Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, có 1.780 ổ dịch đã được ghi nhận tại cả 34 tỉnh, thành trong năm nay và đã có tới 648.000 con lợn buộc phải tiêu hủy, TS Phạm Công Thiếu – Viện trưởng Viện Chăn nuôi Quốc gia cho biết.
Trong khi đó, vấn đề vệ sinh chuồng trại vẫn chưa thực sự được quan tâm ở Việt Nam. Một nghiên cứu2được công bố vào năm 2024 trên tạp chí Journal of Research in Veterinary Science cho thấy, trong 160 hộ chăn nuôi lợn tại ba tỉnh Hà Nam, Hòa Bình và Bắc Giang, có đến 65% hộ chăn nuôi không xử lý chất thải lỏng và 67,5% hộ chăn nuôi không xử lý chất thải rắn. Khi ngày càng nhiều bệnh mới nổi xuất hiện và nhiều vaccine yêu cầu vật nuôi phải hoàn toàn khỏe mạnh, không mang mầm bệnh mới được tiêm, PGS. TS Ngô Thị Kim Cúc cho rằng, biện pháp tiên quyết và thiết yếu hiện nay là thực hiện nghiêm túc an toàn sinh học – tức là ngăn chặn mọi nguy cơ lây nhiễm để đàn vật nuôi luôn duy trì tình trạng sức khỏe tốt.
Hiệu quả đến đâu?
Việc các biện pháp an toàn sinh học có hiệu quả và phù hợp hay không, phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể do mỗi quốc gia lại có cách làm nông nghiệp, cơ cấu chăn nuôi, điều kiện sinh thái, văn hóa, đặc biệt là đặc điểm dịch tễ học của bệnh đều khác nhau, theo TS. Li Yin.
Ông dẫn ví dụ, bệnh tả lợn châu Phi được nghiên cứu ở châu Phi – nơi người ta tin rằng lợn rừng có thể tương tác với lợn nuôi, và có một loài ve mềm đóng vai trò trung gian truyền bệnh, khiến bệnh này trở thành bệnh truyền qua vector. Nhưng ở các nước châu Á như Trung Quốc hay Việt Nam, cũng như khu vực Đông Nam Á, ve mềm không đóng vai trò gì.
“Khó có thể nói rằng một biện pháp sẽ luôn hiệu quả – nó có thể hiệu quả ở nước này nhưng không ở nước khác, hoặc có thể hiệu quả trong năm nay nhưng sang năm, khi tình hình thay đổi, lại không còn phù hợp”, TS. Li Yin nhấn mạnh. Chẳng hạn, khi dịch tả lợn châu Phi mới bùng phát ở Trung Quốc, tập quán cho lợn ăn thức ăn thừa (swill feeding) rất phổ biến. Nhưng sau đợt dịch đầu tiên, việc này bị cấm hoàn toàn, người dân cũng tự nhận thức được rằng đây là hành vi rủi ro cao, nên chủ động dừng lại. Kết quả là trong giai đoạn tiếp theo, việc cho ăn thức ăn thừa không còn là yếu tố chính gây lây lan nữa. Do đó, các biện pháp an toàn sinh học cũng cần được điều chỉnh linh hoạt giữa các nước và từng giai đoạn.

Vậy liệu an toàn sinh học có thể ngăn chặn các bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng và nguy hiểm hay không? Theo TS. Li Yin, điều này cũng không thể khẳng định tuyệt đối. Bởi vì, giống như con người có tính cách khác nhau, mỗi loại bệnh cũng có “tính cách riêng”, tức là đặc điểm dịch tễ học khác nhau.
Chẳng hạn, virus tả lợn châu Phi chủ yếu lây ở lợn, vì lợn là vật chủ chính, còn virus cúm thì có thể lây sang gà, lợn, các loài động vật có vú khác, thậm chí cả con người. Virus tả lợn châu Phi rất bền vững trong môi trường, có thể tồn tại lâu dài và lây lan qua nhiều con đường như thức ăn thừa hoặc vận chuyển sản phẩm thịt lợn đường dài, vì virus này chịu được điều kiện khắc nghiệt. Trong khi đó, virus cúm tuy rất dễ lây, nhưng lại yếu, chỉ cần đun nóng nhẹ là bị tiêu diệt, không còn khả năng lây nhiễm. “Như vậy, mỗi mầm bệnh có đặc tính sinh học khác nhau, và cách con người chăn nuôi, buôn bán, vận chuyển động vật cũng ảnh hưởng tới đường lây bệnh. Vì thế, bạn phải hiểu rõ đặc điểm riêng của từng bệnh để xây dựng biện pháp an toàn sinh học phù hợp”, TS. Li Yin phân tích.
Dù vậy, vẫn có những yếu tố rủi ro chung, chẳng hạn như vận chuyển động vật. “Cá nhân tôi vẫn cho rằng hoạt động buôn bán lợn sống là yếu tố then chốt cần được kiểm soát, đồng thời việc quản lý người ra vào trang trại cũng rất quan trọng”. Theo ông, nếu thực hành vệ sinh tốt trong quá trình mua bán, vận chuyển, chúng ta không chỉ phòng được tả lợn châu Phi, mà còn ngăn ngừa nhiều bệnh khác.
Cần giải pháp dựa trên bằng chứng
Khi còn làm việc ở Trung Quốc, TS. Li Yin thường xuyên đến thăm các trang trại nuôi lợn, và qua quan sát, ông nhận thấy các trang trại nhỏ ở miền Nam Trung Quốc có các điều kiện khá giống với các trang trại ở miền Bắc Việt Nam.
Song, vẫn có một vài điểm khác biệt, chẳng hạn như chất lượng nước ở trang trại Việt Nam. “Tôi hoàn toàn không ngờ yếu tố này lại quan trọng đến vậy”, TS. Li Yin cho biết. “Ở Trung Quốc, tôi đã tiến hành rất nhiều khảo sát nhưng chưa bao giờ thấy chất lượng nước là một vấn đề. Sau đó tôi nhận ra rằng, ở hầu hết các khu vực của Trung Quốc, người dân dùng nước đun sôi hoặc nước máy, nên chất lượng nước khá tốt”.
Do mỗi quốc gia, mỗi địa phương, thậm chí mỗi loại hình trang trại đều có bối cảnh riêng biệt, theo ông, các biện pháp an toàn sinh học được đưa ra cần phải dựa trên nghiên cứu, bằng chứng cụ thể về dịch tễ học của từng loại bệnh, thay vì những phỏng đoán mơ hồ.
Với bối cảnh cụ thể của Việt Nam, để đánh giá các rủi ro lây lan dịch bệnh trong trang trại cũng như tăng cường thực hành an toàn sinh học tại các hộ chăn nuôi, các nhà khoa học tại Viện Chăn nuôi Quốc gia (NIAS), Cơ quan Khoa học Quốc gia Úc (CSIRO) và Đại học Charles Sturt (Úc), thuộc Liên minh Đổi mới sáng tạo về An toàn sinh học trong chăn nuôi lợn, đã phối hợp thực hiện một nghiên cứu trên 169 trang trại tại ba tỉnh Gia Lai (trước đây là Bình Định), Đắk Lắk và Quảng Ngãi.
Kết quả cho thấy một số tập quán chăn nuôi của các nông hộ nhỏ (các nông hộ nhỏ hiện chiếm tỉ lệ 99,8% toàn ngành chăn nuôi) có thể làm tăng nguy cơ bùng phát các dịch bệnh như dịch tả lợn châu Phi. Cụ thể, các trang trại quy mô lớn có tỷ lệ nhiễm bệnh cao hơn (gần gấp 6 lần so với trang trại nhỏ), có thể do tần suất mua bán, trao đổi lợn nhiều hơn và số lượng lợn nuôi lớn hơn. Nguồn nước bẩn – đặc biệt là nước lấy từ hệ thống tưới tiêu – là yếu tố rủi ro đáng chú ý, làm tăng nguy cơ lây bệnh lên 5 lần. Việc đưa lợn trở lại trại sau khi bán ở chợ hoặc từ các trại khác cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh (gần 6 lần), đặc biệt nếu không có biện pháp cách ly thích hợp. Đáng chú ý, việc công nhân di chuyển giữa các chuồng lợn mà không vệ sinh ủng hoặc rửa tay có thể làm tăng nguy cơ lây lan mầm bệnh lên 10 lần.
“Điểm đặc biệt của nghiên cứu này là chúng tôi sử dụng dữ liệu thực địa và áp dụng các mô hình thống kê để xác định mối liên hệ cũng như mức độ ảnh hưởng giữa các thực hành rủi ro và khả năng nhiễm bệnh tại trang trại. Vì vậy, chúng tôi có dữ liệu thực chứng rõ ràng, là bằng chứng vững chắc để khẳng định rằng những thực hành rủi ro này cần được thay đổi”, TS. Li Yin cho biết về cách nhóm nghiên cứu đưa ra đề xuất về các biện pháp an toàn sinh học cụ thể tại khu vực này.
An toàn sinh học có tốn kém?
Nói đến an toàn sinh học, nhiều người thường nghĩ rằng đó là cơ sở vật chất hiện đại, hóa chất khử trùng, thiết bị đắt tiền. Nhưng thực tế, an toàn sinh học bao gồm nhiều yếu tố hơn thế. Ví dụ như trường hợp một trang trại lợn thương mại lớn ở Trung Quốc dù có cơ sở vật chất hiện đại, thiết bị tiên tiến, thậm chí có cả chuyên gia quốc tế tư vấn phòng chống dịch bệnh, nhưng vẫn bị nhiễm bệnh.
Câu chuyện thực tế phía sau hóa ra là: Khi dịch tả lợn châu Phi bùng phát, giá thịt lợn giảm mạnh. Trang trại thương mại này quyết định loại bỏ những con nái kém năng suất. Trước đó, họ chỉ loại bỏ số lượng ít, nhưng do giá thịt giảm, họ bán hàng trăm con nái trong vài ngày.
Công nhân muốn làm nhanh cho xong việc, nên không rửa sạch xe sau mỗi lần vận chuyển. Và đó chính là nguyên nhân gây lây nhiễm – một sơ suất bắt nguồn từ việc đưa ra hướng dẫn không cẩn thận.
“Đối với các hộ chăn nuôi nhỏ, nhiều người nghĩ họ có an toàn sinh học kém, nhưng tôi có thể khẳng định rằng trong năm đầu tiên của dịch tả lợn châu Phi ở Trung Quốc, các hộ chăn nuôi nhỏ lại bị ảnh hưởng ít hơn nhiều so với các trang trại thương mại lớn”, ông phân tích. Lý do là vì nông dân ở các hộ nhỏ quan tâm đến đàn lợn của họ nhiều hơn, họ trực tiếp chăm sóc và kiểm tra lợn thường xuyên, khác với công nhân ở trại lớn – những người chỉ coi đó là ‘công việc phải làm’. Hơn nữa, các hộ nhỏ không buôn bán, vận chuyển lợn thường xuyên như các trang trại thương mại, nên rủi ro lây nhiễm cũng thấp hơn”.
Từ góc độ này, các hộ chăn nuôi nhỏ thậm chí có mức độ an toàn sinh học tốt hơn các trang trại lớn. “Vì vậy, an toàn sinh học không đồng nghĩa với việc phải đầu tư nhiều tiền, mà là làm đúng những điều cần thiết”, TS. Li Yin nhấn mạnh. Các hộ chăn nuôi cũng không nhất thiết phải làm giống nhau, trang trại thương mại có thể dùng hóa chất khử trùng, còn nông dân ở làng có thể chỉ cần đặt dép riêng hoặc ủng ở trước chuồng, hoặc treo biển “Vui lòng không vào khu nuôi lợn”, để hạn chế người lạ tiếp xúc với đàn.
Tuy nhiên, cần lưu ý mỗi lần thay đổi biện pháp can thiệp đều đi kèm với chi phí và nguồn lực cần thiết. “Trong dịch tễ học, chúng tôi thường phân tích để trả lời câu hỏi: Biện pháp đó có hiệu quả hay không? Và có đáng để đầu tư hay không?”, TS. Li Yin cho biết.

Câu trả lời thường không dễ dàng. Một nghiên cứu trên các trang trại gà ở Đồng bằng sông Cửu Long3 cho thấy, dù có lợi ích đáng kể từ việc áp dụng mô hình an toàn sinh học mới – đó là giảm chi phí mua thuốc kháng sinh và có gà thịt xuất chuồng an toàn đúng nghĩa, song, không phải người nông dân nào cũng sẵn sàng áp dụng mô hình này. Lý do là bởi, trong quá trình triển khai mô hình, nhiều người nhận thấy mình phải tốn nhiều nguồn lực hơn (thời gian làm việc, đầu tư chi phí) nhưng thu nhập vẫn không thay đổi do thương lái không chịu mua gà an toàn với giá cao hơn và chỉ mua với giá thị trường. “Để người dân có động lực hơn và có ý thức hơn thì người ta phải nhìn thấy hiệu quả kinh tế ở việc đó”, PGS.TS Ngô Thị Kim Cúc cho biết.
“Tôi cho rằng việc thiết lập hệ thống an toàn sinh học bao gồm rất nhiều yếu tố. Ngoài vaccine, cơ sở vật chất hay hóa chất, còn có những yếu tố khác như truyền thông, giáo dục, và cả khung pháp lý, quy định quản lý. Rõ ràng, nông dân không thể tự mình chịu trách nhiệm cho tất cả những việc này. Đây phải là một nỗ lực mang tính phối hợp chung, cần có sự tham gia, đóng góp ý kiến và hành động từ tất cả các bên liên quan, bao gồm bác sĩ thú y, cửa hàng cung ứng, nông dân, cơ quan quản lý nhà nước, các chợ/bên tiêu thụ,…”, theo TS. Li Yin.
Chú thích:
(1) “Incidence and risk factors of infectious diseases in smallholder pig farms in Vietnam”. Research in Veterinary Science. 2024
(2) “Detection of Recombinant African Swine Fever Virus Strains of p72 Genotypes I and II in Domestic Pigs, Vietnam, 2023”. Emerging Infectious Diseases. 2024
(3)https://tiasang.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/ho-chan-nuoi-nho-tim-loi-di-giua-bit-bung-menh-mang/
Bài đăng KH&PT số 1368 (số 44/2025)
