Chuẩn hóa kỹ thuật dPCR trong đánh giá đáp ứng điều trị thuốc bệnh bạch cầu mạn dòng tủy
Nhóm tác giả ở Bệnh viện Truyền máu Huyết học TPHCM đã xây dựng và chuẩn hóa kỹ thuật dPCR trong đánh giá đáp ứng điều trị thuốc ở người bệnh bạch cầu mạn dòng tủy, giúp giúp cho bác sĩ lâm sàng đưa ra quyết định ngưng thuốc cho người bệnh ở thời điểm thích hợp.
Bệnh bạch cầu mạn dòng tủy (BCMDT) là bệnh của tế bào gốc đa năng. Các tế bào tạo máu của người bệnh mang nhiễm sắc thể Philadelphia, là kết quả của chuyển vị giữa nhánh dài nhiễm sắc thể 9 và 22, tạo thành tổ hợp gen BCR-ABL. Tổ hợp gen này đóng vai trò gây bệnh BCMDT. Vì thế, bệnh BCMDT được điều trị bằng thuốc nhắm trúng đích phân tử BCR-ABL, từ đó làm giảm và loại trừ tế bào mang tổ hợp gen gây bệnh này. Do đó, việc định lượng số bản sao BCR-ABL còn lại trong cơ thể người bệnh là tiêu chuẩn vàng trong theo dõi đáp ứng điều trị bệnh.
Bệnh BCMDT thường sử dụng các thuốc ức chế tyrosine kinase BCR/ABL (TKI). Mục tiêu điều trị bệnh là đạt đáp ứng sâu về phân tử (MR4,0 trở lên) sớm và duy trì mức đáp ứng này. Tuy nhiên, việc duy trì dùng thuốc làm người bệnh đối mặt với nguy cơ kháng thuốc, chịu tác dụng phụ và gánh nặng về kinh tế. Do đó, bác sĩ cần cân nhắc việc ngưng thuốc ở thời điểm thích hợp, đủ an toàn để người bệnh ít nguy cơ tái phát nhất có thể, đồng thời theo dõi sát để phát hiện sớm dấu hiệu tái phát ở mức phân tử.
Theo hướng dẫn điều trị của Mạng lưới ung thư quốc gia Hoa Kỳ, bệnh nhân BCMDT giai đoạn mạn điều trị TKI ít nhất 3 năm, duy trì MR4,0 trở lên ít nhất 2 năm có thể ngưng thuốc. Dùng kỹ thuật PCR định lượng có độ nhạy từ MR4,5 trở lên để theo dõi sau ngưng thuốc.
Hiện nay, những kỹ thuật cho phép xác định MR4,5 – MR5,0 có thể kể đến là RQ PCR (Kỹ thuật Realtime Quantitative polymerase chain reaction) hệ thống kín và PCR kỹ thuật số (dPCR: digital polymerase chain reaction). Tuy nhiên, RQ PCR hệ thống kín chưa thực hiện được vì kít của hệ thống này chưa được nhập về Việt Nam. Trong khi đó, kỹ thuật dPCR được triển khai tại Bệnh viện Truyền máu Huyết học TPHCM từ năm 2019, với đặc điểm chia nhỏ dung dịch phản ứng thành khoảng 20.000 giọt kích thước siêu nhỏ vài nanolit, sau đó khuếch đại và định lượng số bản sao gen đích trong từng giọt.
Hiện nay, ở trong nước, các hệ thống RQ PCR có thể đánh giá đáp ứng thuốc ở mức MR4,0 để quyết định ngưng thuốc cho người bệnh, nhưng theo dõi sau khi ngưng thuốc (MR4,5 – MR5,0), thì chưa thực hiện được, vì vậy nhóm nghiên cứu Bệnh viện Truyền máu Huyết học TPHCM, đã triển khai thực hiện đề tài “Đánh giá đáp ứng sâu về sinh học phân tử trên bệnh nhân bạch cầu mạn dòng tủy điều trị thuốc ức chế tyrosine kinase”, nhằm đánh giá khả năng theo dõi tồn lưu tế bào ác tính trong bệnh BCMDT bằng kỹ thuật dPCR.
Nhóm nghiên cứu đã khảo sát trên 105 người bệnh BCMDT đang điều trị TKI tại Bệnh viện Truyền máu Huyết học TPHCM trong thời gian từ tháng 2/2020 – 6/2022 đã đạt MR3,0 sau điều trị từ 6 -18 tháng. Kết quả cho thấy, có 43,8% người bệnh đạt MR4,0 trở lên khi khảo sát bằng RQ PCR. Trong khi đó, tỷ lệ người bệnh đạt MR4,0 trở lên khi khảo sát bằng dPCR là 67,6%. Điều này cho thấy dPCR ưu thế hơn RQ PCR khi khảo sát các mẫu còn tồn lưu thấp.
TS. BSCKII. Phù Chí Dũng, Chủ nhiệm đề tài, bệnh BCMDT là một bệnh ung thư máu có đáp ứng rất khả quan với điều trị TKI. Kỹ thuật dPCR là một kỹ thuật có độ nhạy và độ đặc hiệu cao, có khả năng phát hiện đến MR4,7. Do đó, để đánh giá đáp ứng sâu về sinh học phân tử thì nên triển khai xét nghiệm dPCR thường quy. Đồng thời, trên người bệnh BCMDT điều trị TKI, nên định lượng BCR/ABL mỗi 3 – 6 tháng sau điều trị, nhằm tiên lượng nguy cơ tái phát, khả năng ngưng thuốc TKI và duy trì lui bệnh sau ngưng thuốc.
Theo nhóm nghiên cứu, dPCR là một kỹ thuật mới, có độ chính xác và độ tin cậy cao hơn RQ PCR, đặc biệt là ở mức MR4,0 và MR4,5. Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào khảo sát việc đánh giá đáp ứng điều trị thuốc ở người bệnh BCMDT bằng dPCR.
Đề tài xây dựng và chuẩn hóa kỹ thuật dPCR, giúp đánh giá tình trạng lui bệnh về phân tử chính xác. Qua đó, giúp cho bác sĩ lâm sàng đưa ra quyết định ngưng thuốc cho người bệnh ở thời điểm thích hợp. Mặt khác, kỹ thuật này cũng cho phép phát hiện sớm các trường hợp không đáp ứng hay tái phát, từ đó giúp bác sĩ lâm sàng có thể thay đổi phác đồ điều trị phù hợp. Hiện nhu cầu khảo sát đáp ứng về sinh học phân tử rất cấp thiết để quyết định ngưng thuốc, kết quả nghiên cứu có thể ứng dụng rộng rãi cho các bệnh viện điều trị bệnh BCMDT trên cả nước.
Khúc Liên