Giải Nobel kinh tế thuộc về những người chứng tỏ khoa học thúc đẩy tăng trưởng
Joel Mokyr, Philippe Aghion và Peter Howitt cùng chia sẻ giải Nobel kinh tế cho công trình chứng tỏ tầm quan trọng của việc đầu tư vào R&D.

Giải Sveriges Riksbank cho khoa học kinh tế tưởng nhớ Alfred Nobel đã được trao cho ba nhà khoa học chứng tỏ cách đổi mới KH&CN kết hợp với cạnh tranh thị trường điều hướng sự tăng trưởng kinh tế.
Một nửa giải thưởng thuộc về nhà sử học kinh tế Joel Mokyr của ĐH Northwestern ở Evanston, Illinois, và một nửa thuộc về các nhà lý thuyết kinh tế Philippe Aghion của Collège de France và Trường kinh tế London, và Peter Howitt của ĐH Brown.
“Tôi không thể diễn tả bằng lời cảm xúc của tôi”, Aghion nói. Ông cho biết mình sẽ dùng tiền cho nghiên cứu ở Collège de France
Giải thưởng “ nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc đầu tư vào khoa học cho đổi mới và tăng trưởng kinh tế dài hạn”, nhà kinh tế Diane Coyle của ĐH Cambridge nói. “Thật tuyệt vời khi thấy giải Nobel ghi nhận tầm quan trọng của chủ đề này,” nhà nghiên cứu về chính sách đổi mới Richard Jones của ĐH Manchester, cho biết thêm. “Thật quan trọng khi các nhà kinh tế hiểu về các điều kiện dẫn đến tiến triển công nghệ”, ông nói. Những người thắng giải, theo Coyle, “từ lâu đã thuộc vào danh sách các ứng viên của giải thưởng”.
Cũ không phải là vàng
Tăng trưởng kinh tế tại tỉ lệ 1 đến 2% mỗi năm là một quy chuẩn bởi các quốc gia công nghiệp. Nhưng tốc độ tăng trưởng không đến sớm, bất chấp những đổi mới công nghệ như cối xay gió và máy in.
Mokyr chứng tỏ là sự khác biệt chính giữa hiện tại và cái mà ông gọi “tri thức hữu dụng” hoặc các đổi mới dựa trên hiểu biết khoa học. Một ví dụ là những tiên tiến từ Cuộc cách mạng công nghiệp, bắt đầu từ thế kỷ 18, khi những cải thiện về động cơ hơi nước có thể được triển khai một cách có hệ thống hơn là quá trình thử và sai.
Aghion và Howitt phân loại các cơ chế thị trường đằng sau tăng trưởng bền vững trong những giai đoạn gần đây. Vào năm 1992, họ trình bày một mô hình chứng tỏ cách cạnh tranh giữa các công ty bán những sản phẩm mới cho phép đổi mới sáng tạo gia nhập thị trường và thay thế những sản phẩm cũ hơn: một quá trình mà họ gọi là sự phá hủy mang tính sáng tạo.
Tăng trưởng cơ bản, nói cách khác, là một sự thay đổi liên tục của các doanh nghiệp và sản phẩm. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra cách các công ty đầu tư vào R&D để cải thiện cơ hội tìm ra sản phẩm mới, đồng thời dự đoán mức đầu tư tối ưu.
Nhà nước doanh nhân
Theo nhà kinh tế Ufuk Akcigit của ĐH Chicago, Aghion và Howitt nhấn mạnh vào khía cạnh quan trọng của tăng trưởng kinh tế, đó là chi chho R&D tự nó không đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao hơn: “Nếu chúng ta không thay thế các công ty kém hiệu quả khỏi nền kinh tế, chúng ta không thể tạo không gian cho những người mới đến với những ý tưởng mới và những công nghệ tốt hơn”.
“Khi một doanh nhân mới xuất hiện, họ có động lực để tạo ra một công nghệ mới mang tính đột phá,” Akcigit nói. “Ngay khi họ trở thành người dẫn đầu, động lực của họ biến mất” và họ không còn đầu tư vào R&D để thúc đẩy đổi mới nữa.
Do đó, bởi vì các công ty không thể kỳ vọng giữ được vị trí trên mặt tiền đổi mới mãi mãi, động lực đầu tư vào R&D đến từ thị trường sẽ giảm dần khi thị phần của công ty tăng lên. Để đảm bảo lợi ích xã hội từ sự đổi mới liên tục, mô hình này cho rằng nhà nước nên trợ cấp cho R&D vì lợi ích của xã hội, miễn là lợi ích đó không chỉ là những cải tiến gia tăng.
Công trình của ba nhà khoa học đều đem lại hiểu biết về những hệ quả xã hội phức tạp của tăng trưởng. Trong thời gian đầu của Cuộc cách mạng Công nghiệp, đã có o ngại về cơ giới hóa có thể làm sa thải nhiều nhân công – một lo ngại vọng đến ngày nay là sự gia tăng sử dụng AI thay thế con người. Nhưng Mokyr chứng tỏ là sự cơ giới hóa lại dẫn đến việc tạo ra nhiều công việc mới.
Sự phá hủy mang tính sáng tạo, trong khi đó, lại dẫn đến việc các công ty phá sản và mất việc làm. Aghion và Howitt nhấn mạnh rằng xã hội cần có mạng lưới an toàn và đàm phán mang tính xây dựng để giải quyết các vấn đề đó.
Mô hình của họ “ghi nhận tính hỗn loạn và phức tạp trong cách thức đổi mới diễn ra trong các nền kinh tế thực”, Coyle nói. “Ý tưởng cho rằng năng suất của một quốc gia tăng lên nhờ các công ty phá sản và các công ty mới ra đời là một điều khó chấp nhận, nhưng bằng chứng cho thấy khá rõ ràng”.
Thông điệp thời gian
Giải thưởng năm nay được trao vào thời điểm nguồn tài trợ cho khoa học đang bị đe dọa ở Mỹ và trên toàn thế giới. “Đây là một thông điệp rất kịp thời khi chúng ta chứng kiến chính phủ Mỹ đang làm suy yếu quá nhiều nền tảng khoa học của mình”, Coyle nói. Còn theo Aghion “Tôi không hoan nghênh làn sóng bảo hộ ở Mỹ” và nói thêm “sự cởi mở là động lực tăng trưởng. Tôi thấy những đám mây đen đang tích tụ”. to translate high-tech innovations into market value.
Nhà sử học kinh tế Kerstin Enflo, thành viên Ủy ban giải Nobel, phủ nhận ý kiến cho rằng giải thưởng này nhằm bình luận về định hướng chính sách của Hoa Kỳ. “Nó chỉ nhằm tôn vinh những công trình [của những người đoạt giải] đã làm”, bà phát biểu tại buổi họp báo.
Tăng trưởng xanh
Gần đây, các nhà khoa học đang đặt câu hỏi về ‘tăng trưởng bằng mọi giá” bởi vì những cách theo đuổi sự tăng trưởng đã dẫn đến sự phá hủy môi trường, bao gồm cả sự ấm lên toàn cầu.
“Chúng ta có thể đảm bảm chúng ta đổi mới theo hướng công nghệ xanh hơn như thế nào?” Aghion đặt câu hỏi. “Các công ty không tự động làm điều đó. Vì vậy chúng ta có thể chuyển hướng sang công nghệ xanh như thế nào?” Công trình của Mokyr chứng tỏ tăng trưởng đôi khi tự điều chỉnh theo nghĩa tạo ra những đổi mới cần thiết để giải quyết những vấn đề như vậy. Nhưng điều đó không phải là hiển nhiên mà đòi hỏi các chính sách được xây dựng kỹ lưỡng để nuôi dưỡng đổi mới mà không thúc đẩy bất bình đẳng và tính không bền vững. “Chúng ta cần khai thác tiềm năng năng suất và tối thiểu hóa các ảnh hưởng tiêu cực”, Aghion nói.
Thanh Phương dịch từ Nature
Nguồn: doi: https://doi.org/10.1038/d41586-025-03364-2