Khoảng cách công nghệ số gặp khoảng cách công nghệ lượng tử

Việc tiếp cận công nghệ lượng tử chỉ là đặc quyền của một nhóm nhỏ không chỉ phản ánh xu hướng đáng quan ngại của tình trạng cát cứ công nghệ, mà còn phát sinh thêm những thách thức mới, đặc biệt khi lượng tử có tiềm năng tấn công vào hạ tầng số hiện tại trên khắp thế giới.

Một đột phá lớn trong công nghệ lượng tử vào tháng 10/2024: đường truyền thông tin lượng tử giữa Trung Quốc và Nam Phi với khoảng cách lên tới 12.900 km.

Trong nhiều thập kỷ, nhiều người đã cho rằng, các quy tắc về sở hữu trí tuệ đã khiến bất bình đẳng toàn cầu trở nên sâu sắc, và khiến thành quả của phát triển công nghệ chỉ tích tụ ở các quốc gia thịnh vượng và kìm hãm sự tăng trưởng ở các nước đang phát triển. Những lo ngại tương tự giờ đây tiếp tục xuất hiện với sự trỗi dậy của nền kinh tế AI, nơi những người đi tiên phong đang thiết lập các tiêu chuẩn kiểm soát cho phù hợp với mối quan tâm của chính họ, và thường làm tăng chi phí của các quốc gia nghèo.

Khi các quốc gia phát triển cùng chạy đua tới cột mốc uy quyền lượng tử, mô hình “gác cổng công nghệ”, cát cứ công nghệ tương tự đang được dự báo là có xu hướng lặp lại. Dù chưa thành hình nhưng tiềm năng của các tiên tiến lượng tử đang có ít nhiều mở ra gợi ý về an ninh quốc gia, do đó, sự bất bình đẳng cả về tiếp cận và kiểm soát công nghệ có nguy cơ mở rộng hơn. Chúng ta đã chứng kiến việc kiểm soát xuất khẩu công nghệ ngặt nghèo và các sáng kiến nghiên cứu được thiết kế chỉ để giữ công nghệ ở lại những quốc gia tạo ra chúng. đang phát triển đang có nguy cơ không được hưởng lợi từ các thành quả công nghệ này – không chỉ bao gồm những lợi ích công nghệ và kinh tế của đổi mới lượng tử mà còn cả với khả năng tăng cường an ninh quốc gia mà nó hứa hẹn. Việc tiếp cận công nghệ lượng tử chỉ là đặc quyền của một nhóm nhỏ không chỉ phản ánh xu hướng đáng quan ngại của tình trạng cát cứ công nghệ, mà còn phát sinh thêm những thách thức mới, đặc biệt là khi lượng tử có tiềm năng tấn công vào hạ tầng số hiện tại trên khắp thế giới.

Khoét sâu thêm khoảng cách số toàn cầu 

Trong khi những ứng dụng thực tiễn của các công nghệ lượng tử chủ yếu vẫn còn tít phía chân trời thì khoảng cách lượng tử toàn cầu ngày một lớn lên và trở nên rõ nét hơn. Trong vòng năm năm qua, tình trạng kiểm soát xuất khẩu các công nghệ liên quan tới lượng tử đã được mở rộng đáng kể. Mỹ ngày một nghiêm ngặt hơn trong bảo vệ nghiên cứu lượng tử của mình, bắt đầu với việc cấm có chủ đích với tám công ty Trung Quốc vào năm 2021, sau đó là việc ban bố những yêu cầu giấy phép xuất khẩu toàn diện với phần cứng lượng tử, phần mềm lượng tử và các hệ lượng tử hoàn thiện vào cuối năm 2024. 


Những hạn chế chuyển giao công nghệ liên quan đến lượng tử có thể gốp phần duy trì sự thống trị về mặt quân sự của các nền kinh tế tiên tiến, đồng thời làm méo mó sự phát triển kinh tế ở những nước đang phát triển.

Năm 2021, EU thiết lập một khung khổ thống nhất giới hạn hàng hóa xuất khẩu về công nghệ lưỡng dụng, với việc Pháp, Tây Ban Nha và Hà Lan thi hành các kiểm soát cụ thể với các bit lượng tử chức năng (các đơn vị cơ bản của máy tính lượng tử có thể lưu giữ những đặc tính lượng tử đủ lâu để thực hiện các tính toán tin cậy) và cấm xuất khẩu các hệ vượt quá 34 bit lượng tử. Trung Quốc đã thi hành các biện pháp bảo vệ riêng biệt của mình, đưa cả công nghệ mã hóa lượng tử và công nghệ nhiệt độ siêu thấp (phần thiết yếu cho các máy tính siêu dẫn) vào danh sách các hàng hóa hạn chế xuất khẩu trong năm 2020.

Việc kiểm soát các công nghệ đó đã tạo ra những vòng lặp giới hạn quyền tiếp cận: một mặt các quốc gia đồng minh được quyền trao đổi công nghệ, mặt khác các quốc gia cạnh tranh phải đối mặt với những thách thức ngày một gia tăng khi thiết lập những chương trình nghiên cứu lượng tử của mình. Dẫu những kiểm soát đó thường được hợp thức hóa như cách để giữ bí mật công nghệ với đối thủ nhưng chúng cũng dẫn đến những hệ quả ngoài ý muốn, khi ngăn các nhà nghiên cứu và các tổ chức từ Toàn cầu nam tiếp cận công nghệ.

Lực cản đổi mới sáng tạo 

Trong khi những giới hạn chuyển giao  công nghệ ngày càng bị thắt chặt, các cách tiếp cận để thúc đẩy hợp tác nghiên cứu đang có thêm nhiều sắc thái. Các khung khổ chia sẻ kiến thức chiến lược cho phép cá nhân nhà nghiên cứu tự do hơn trong việc hợp tác quốc tế. Sự dịch chuyển này phản ánh sự cân nhắc thực tiễn: nguồn nhân lực lượng tử toàn cầu nhỏ và nhiều người xuất sắc trong số đó có xu hướng kết nối quốc tế. Gần một nửa các nhà nghiên cứu lượng tử ở Mỹ là người nước ngoài. Mỹ tiếp tục cho phép chia sẻ thông tin giữa các cá nhân, dẫu có yêu cầu nghiêm ngặt về bảo vệ dữ liệu nghiên cứu. Mỹ cũng phụ thuộc nhiều vào các đối tác EU, Nhật Bản cho những thành phần và vật liệu nghiên cứu chính và khoảng một nửa tác giả các bài báo nghiên cứu về lượng tử của Mỹ là người nước ngoài.

Các quốc gia tiên phong thiết lập tiêu chuẩn kiểm soát công nghệ mới và thường làm tăng chi phí của các quốc gia nghèo.

EU cũng nhận ra và làm theo cách này của Mỹ, khi rút lại những nỗ lực chỉ chia sẻ những sáng kiến nghiên cứu lượng tử với các quốc gia thành viên và hoàn thiện các thỏa thuận hợp tác Anh trong khi xem xét những thỏa thuận tương tự với Thụy Sĩ. Ngược lại, Trung Quốc  đã tăng gấp đôi tự cường công nghệ, ưu tiên phát triển nhân tài quốc nội và giới hạn hợp tác quốc tế. Tất cả các cách làm với việc kiểm soát và phát triển công nghệ lượng tử làm dấy lên những câu hỏi về tính công bằng trong tiếp cận công nghệ và gợi ý về những quốc gia bên lề  những đặc quyền đổi mới công nghệ đó.

Những hạn chế chuyển giao công nghệ liên quan đến lượng tử có thể gốp phần duy trì sự thống trị về mặt quân sự của các nền kinh tế tiên tiến, đồng thời làm méo mó sự phát triển kinh tế ở những nước đang phát triển. Ví dụ, việc sử dụng mạng lưới truyền thông lượng tử quy mô lớn – mà EU và Canada đều quan tâm – có thể được chứng minh là thiết yếu với cơ sở hạ tầng an ninh thế hệ mới, khiến các quốc gia không thể tiếp cận hệ thống này hoặc hệ thống an ninh lượng tử hiệu quả, có nguy cơ rủi ro bị tấn công từ các đối thủ địa chính trị của mình, hoặc ngay cả các tin tặc tham lam. Tương tự, cảm biến lượng tử được dự báo là có thể đem lại những ứng dụng dân dụng, từ giám sát dịch bệnh đến chụp ảnh y khoa. Tuy nhiên, thứ công nghệ tiên tiến này sẽ có tiềm năng tạo ra những căng thẳng giữa áp lực cho phép các nước nghèo tiếp cận những lợi ích kinh tế liên quan đến công nghệ lượng tử và sự khao khát bảo vệ sự thống trị mang tính chiến lược, cụ thể là những tiên tiến trong ứng dụng quân sự và dân dụng. Việc hình thành các chuỗi cung cấp lượng tử trong khối các quốc gia phát triển bao hàm cả vấn đề này, qua đó làm tăng thêm động cơ cát cứ công nghệ của những người đi trước trong phát triển công nghệ lượng tử.

Một khung không phổ biến mới?

Luận điểm này không phải không có tiền lệ trong lịch sử. Tại thuở bình minh của kỷ nguyên hạt nhân, Tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower đã đề xuất sáng kiến “Nguyên tử cho hòa bình” vào năm 1953 – nhằm hỗ trợ phát triển hạt nhân vì mục đích hòa bình để đổi lấy cam kết về ứng dụng phi quân sự. Điều này dẫn đến sự hoàn thiện cơ chế không phổ biến vũ khí hạt nhân, bao gồm cả việc bảo vệ vật liệu và công nghệ hạt nhân được chuyển giao.

Có thể là một khung “Bit lượng tử cho hòa bình” tương tự cho công nghệ hạt nhân chăng? Có lẽ là như vậy nhưng bối cảnh địa chính trị ngày nay ít thuận lợi hơn. Thế giới đa cực ngày này có thể không là một đơn cực duy nhất – hoặc thậm chí là một liên minh duy nhất. Và các quốc gia đang phát triển có thể không chấp nhận đặt các giới hạn lên các công nghệ chiến lược mà họ theo đuổi.

Tuy nhiên, ngay cả nếu các quốc gia tiên tiến đồng ý chuyển giao công nghệ lượng tử thông qua một khung khổ nào đó, sự khác biệt của những ứng dụng lượng tử trong lĩnh vực quân sự cũng là rào cản lớn. Mã hóa và truyền thông lượng tử đang là những lĩnh vực được quan tâm: các quốc gia đều có những mối quan tâm về các hệ thống an ninh quốc gia trong khi vẫn tìm mọi cách để xuyên phá các mạng lưới này của đối thủ. Điều này phản chiếu những tranh cãi kéo đài về mã hóa, giờ lại được thêm phần phức tạp trong kỷ nguyên lượng tử.

Giờ đây thật khó mà hình dung ra một cam kết rộng rãi về bình đẳng trong phát triển lượng tử. Nguy cơ ở đây là một vài chính phủ sẽ độc quyền hóa truyền thông an toàn và các quốc gia đang phát triển, vốn đã tụt hậu lại càng trở nên dễ bị tổn thương hơn.

Để lỡ cuộc cách mạng lượng tử

Nếu không được tiếp cận vào các nguồn lực lượng tử, các nước đang phát triển có thể phải đối diện với ba điều bất lợi. Thứ nhất, cơ sở hạ tầng an ninh có thể trở nên bị rủi ro khi máy tính lượng tử đe dọa phá vỡ các giao thức lượng tử hiện có. Thứ hai, sự cạnh tranh về kinh tế của họ có thể bị giảm sút vì họ mất cơ hội phát triển công nghệ tăng cường lượng tử. Cuối cùng, chủ quyền công nghệ của họ có thể bị xói mòn khi phụ thuộc vào những nhà cung cấp bên ngoài sẽ trở nên khó tránh khỏi.

Điều này có thể làm khuếch đại hơn khoảng cách số hiện tại, và cuối cùng không còn bất cứ hy vọng nào về việc một ngày nào đó, các nước đang phát triển có thể bắt kịp với tiêu chuẩn công nghệ mà các quốc gia phát triển hưởng thụ.

Những tiên tiến lượng tử cho thấy những thách thức đáng kể cho những người chậm chân. Không giống các công nghệ số mà lợi ích được hưởng khắp từ sự lan tỏa công nghệ, các công nghệ lượng tử đe dọa tạo ra những nguy cơ an ninh ngay tức thì và khiến cho hệ thống cơ sở hạ tầng số toàn cầu đứng trước rủi ro chưa từng có trong khi cự tuyệt sự tiếp cận các nguồn lực lượng tử của các quốc gia đang phát triển. Sự thay đổi cách tiếp cận này của các cường quốc lượng tử thông qua việc hướng tới hợp tác nghiên cứu có thể là tín hiệu cho một con đường tiềm năng phía trước, với các khung khổ chia sẻ hiểu biết mang tầm chiến lược rộng mở tới các quốc gia đang phát triển và bắc cầu qua các khoảng cách lượng tử. Khi rót các nguồn lực thúc đẩy công nghệ lượng tử, các quốc gia giàu có cũng cần xem xét để lợi ích không thuộc về một số ít và đảm bảo mọi người có thể tiếp cận nó.□

* Michael Karanicolis là phó giáo sư Luật và chủ tịch Ủy ban Chính sách công và Luật James S. Palmer, ĐH Dalhousie.

Alessia Zornetta, nghiên cứu sinh Luật UCLA.

Thanh Hương dịch

Nguồn: The Digital Divide Meets the Quantum Divide. Just Security. Trung tâm Luật và an ninh Reiss. Trường Luật ĐH New York. 

Bài đăng Tia Sáng số 19/2025

Tác giả

(Visited 24 times, 24 visits today)