Nợ công Việt Nam đã vượt xa ngưỡng an toàn
Theo Ủy ban Kinh tế, những khoản nợ xấu của khu vực DNNN mà rất có thể sẽ phải dùng NSNN để trả, là mầm mống đe dọa tính bền vững của nợ công Việt Nam. Riêng năm 2012, nghĩa vụ trả nợ xấp xỉ 5,4 tỷ USD, tương đương 4,5% GDP năm 2011.
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cho rằng, rủi ro tiềm tàng lớn nhất đối với nợ công của Việt Nam có lẽ không phải ở những khoản nợ được ghi nhận trên sổ sách.
Theo đó, những khoản nợ xấu của khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) mà rất có thể sẽ phải dùng ngân sách nhà nước để trả mới là mầm mống đe dọa tính bền vững của nợ công Việt Nam.
Cụ thể, khoản nợ nước ngoài của khu vực tư nhân và DNNN không được chính phủ bảo lãnh chiếm 11,1% GDP. Ngoài ra, nợ trong nước của khu vực DNNN theo ghi nhận trong Đề án Tái cấu trúc DNNN của Bộ Tài chính năm 2012 cũng chiếm xấp xỉ khoảng 16,5%.
Nhóm nghiên cứu của Ủy ban Kinh tế và UNDP đánh giá, tính đến các con số kể trên, nợ công Việt Nam đã vượt xa so với ngưỡng an toàn (60% GDP) được khuyến cáo bởi các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB) hay Quỹ tiền tệ Thế giới (IMF).
Tại báo cáo thẩm tra về Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2011 – 2015 và năm 2012, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu đồng ý với Chính phủ, chỉ tiêu dư nợ công năm 2012 không quá 60% GDP, đến năm 2015 không quá 65% GDP, dư nợ của Chính phủ không quá 55% GDP, dư nợ quốc gia không quá 40% GDP.
Dự kiến, nợ công sẽ còn tăng đến 2015 và được đề xuất bắt đầu giảm từ 2016 nhằm tránh ách tắc trong phát triển KT-XH.
Nghĩa vụ trả nợ năm 2012 tương đương 4,5% GDP năm 2011
Báo cáo lưu ý, trong vài năm trở lại đây, quy mô của các khoản vay thương mại trong nợ nước ngoài với lãi suất cao đang có xu hướng tăng lên. Tính đến hết ngày 31/12/2010, đã có gần 6,8% tổng nợ nước ngoài của Chính phủ có lãi suất lên tới 6-10% và hơn 7% tổng nợ nước ngoài của Chính phủ có lãi suất thả nổi.
Bên cạnh đó, bản dự thảo báo cáo chỉ ra, cơ cấu kỳ hạn của các khoản nợ công trong nước cũng gây rủi ro khá lớn. Trong khi các khoản nợ nước ngoài có kỳ hạn dài tới vài chục năm, có hơn 88,7% nợ trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính phủ bảo lãnh có kỳ hạn chỉ từ 2-5 năm.
Do vậy, nghĩa vụ nợ nước ngoài được dàn khá đều với 1,5-2 tỉ USD/năm, trong khi đó nghĩa vụ nợ trong nước lại dồn trong thời gian gần, với xấp xỉ 4,5-5 tỉ USD/năm trong vòng 4 năm tới. Như vậy, cùng với triển vọng cán cân ngân sách cơ bản tiếp tục thâm hụt thì sức ép phát hành trái phiếu để đảo nợ trong nước những năm tới là rất lớn.
Với tỉ trọng đang có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây, nhóm nghiên cứu cho rằng, nợ công trong nước đang hàm chứa những rủi ro do lợi suất cao cộng với kỳ hạn ngắn của nó.
Chỉ tính riêng năm 2012, nghĩa vụ trả nợ lãi và gốc của Việt Nam lên tới xấp xỉ 5,4 tỉ USD hay tương đương với 4,5% GDP của năm 2011. Theo nhóm nghiên cứu, đây chính là những nguyên nhân chính của hiện tương chi tiêu công lấn át chi tiêu tư nhập, kết hợp lạm phát cao do sức ép tài trợ trái phiếu thông qua tăng cung tiền.
Theo số liệu được cung cấp bởi Kiểm toán Nhà nước, tính đến hết năm 2010 nợ phải trả nước ngoài dùng để cho vay lại tương đương 11,2 tỷ USD, tăng hơn so với 9,203 tỷ USD năm 2009. Trong đó, số dư mà Bộ Tài chính cho vay lại tại 11 tổ chức cho vay lại và 7 đơn vị vay lại khoảng 8,4 tỷ USD.
Lũy kế đến hết năm 2011, số tiền Bộ Tài chính ứng trả nợ thay cho các đơn vị được Chính phủ bảo lãnh vay công nước ngoài gần 2.437 tỷ đồng.