Phổ biến kiến thức khoa học: Từ dịch thuật đến sáng tạo trong ngôn ngữ đại chúng
Quá trình dịch thuật kiến thức khoa học vừa là quá trình dịch thuật từ ngôn ngữ ít người biết sang ngôn ngữ đại chúng cũng vừa mang nghĩa trao cho kiến thức khoa học một cách biểu đạt mới mà không làm mất đi thông điệp và nội dung.

Phổ biến kiến thức hàn lâm sang ngôn ngữ bình dân: Công cụ truyền bá khoa học và bảo vệ nhà khoa học
Nhìn vào lịch sử thế giới, có thể coi việc phổ biến kiến thức khoa học là quá trình chuyển dịch từ một ngôn ngữ mọi người ít biết sang một ngôn ngữ đại chúng hơn. Công việc này bắt đầu từ rất sớm, từ khi Thánh Jérôme (345-420) – Thánh bổn mạng của giới dịch thuật – dịch bản Kinh Thánh sang tiếng La-tinh1 (tên là Vulgata – tức là bản phổ thông) để văn bản thiêng liêng này tới gần hơn với mọi người. Thánh Jérôme cho rằng để dịch, cần phải sáng tạo lại. Để làm được việc sáng tạo lại này trên thực tế Thánh Jérôme là người có nền tảng văn hóa sâu rộng, nhờ đó mới có thể “hòa quyện các truyền thống văn học La-tinh và Do Thái” (Larbaud 1946).
Nếu ở thời kỳ đầu Công nguyên là quá trình dịch thuật Kinh thánh sang tiếng La-tinh, thì sang thời Phục Hưng, các ngôn ngữ bản xứ đã lên ngôi. Quá trình này bắt đầu với việc Dante Alighieri (1265-1321) dùng tiếng Florentine (một loại ngôn ngữ vùng Tuscany, Ý) để sáng tác các tác phẩm tưởng nhớ nàng Beatrice yêu dấu. Ông đã có công chuẩn hóa tiếng Florentine, rồi nhờ uy tín chính trị của vùng Florence thời điểm đó, tiếng của Florentine thành tiếng Ý và được dùng thay tiếng La-tinh trong các văn bản hành chính. Tiếp theo Ý, các quốc gia lân cận như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… dần dần dùng ngôn ngữ bản xứ thay cho tiếng La-tinh. Việc thay đổi cách dùng ngôn ngữ này cũng kéo theo việc các nhà khoa học, trí thức bắt đầu dùng ngôn ngữ bản xứ trong các công trình học thuật thay vì dùng tiếng La-tinh. Đây không chỉ là sự chuyển dịch trong cách dùng ngôn ngữ mà rộng hơn còn là quá trình dịch thuật các công trình khoa học từ tiếng La-tinh sang ngôn ngữ bình dân. Điều này giúp cho cộng đồng khoa học có cơ hội giới thiệu công trình tới lượng công chúng ngày càng rộng lớn và đa dạng.
Đối thoại giữa nhà khoa học và công chúng giữ vai trò quan trọng trong việc phổ biến tri thức hàn lâm. Sự đối thoại không chỉ là cầu nối giúp khoa học gần gũi hơn với xã hội, với công chúng, mà còn là phương tiện để làm sáng tỏ các chân lý, khơi dậy tò mò và thúc đẩy tư duy phản biện.
Trong một số trường hợp, việc sử dụng ngôn ngữ bình dân thay cho tiếng La-tinh không chỉ là phương thức nhà khoa học sử dụng để chuyển tải kiến thức tới đại chúng, mà ngôn ngữ bình dân trở thành một công cụ để bảo vệ chính nhà khoa học. Như trường hợp của Galileo Galilei, nhà toán học và thiên văn học người Pisa (1564-1642). Năm 1623, nhà khoa học này đã chọn tiếng Ý thay vì tiếng La-tinh để viết tác phẩm Il Saggiatore (Người thử nghiệm). Công trình viết về các vì sao này được coi như là một trong những tác phẩm tiên phong của phương pháp khoa học. Việc Galileo Galilei chọn tiếng Ý nhằm lan tỏa kiến thức khoa học được coi là rất mới tới đông đảo người dân – những người có khả năng sẽ bảo vệ ông trước tình hình giáo hội đang phản đối bằng tiếng La-tinh các công trình của ông. Vậy là việc viết hay dịch kiến thức hàn lâm bằng ngôn ngữ bình dân “trở thành một hành động mang ý nghĩa chính trị và triết học vượt xa giới hạn của tri thức” (Raichvarg 2010).
Trên thực tế, khoa học cần đối thoại, không chỉ giữa cộng đồng học thuật mà còn giữa các nhà khoa học với công chúng. Muốn làm được như vậy, các nhà khoa học cần có thiện chí bước ra khỏi tháp ngà để công bố chân lý và tri thức mới. Ý tưởng về cuộc đối thoại giữa giới khoa học và đại chúng đã được khởi xướng từ thời Galileo Galilei, trong tác phẩm “Đối thoại về hai hệ thống chính yếu của thế giới” (1632), chính nhà khoa học này đã chọn lựa cách xây dựng ba nhân vật: Simplicio, phát ngôn viên cho các ý tưởng của Ptolemy; Salviati, người bảo vệ quan điểm của Copernic; và Sagredo, dựa vào lẽ thường để tìm kiếm sự thật. Thông qua sự đối thoại và việc đặt mình vào vị trí của người tìm kiếm sự thật – tức là khán giả: “Nếu tôi ở vị trí của Sagredo, tôi sẽ đặt câu hỏi gì?”. Galileo Galilei là minh chứng tiêu biểu cho tầm quan trọng của đối thoại; thay vì trình bày các khái niệm trừu tượng, ông chọn cách xây dựng cuộc tranh luận giả tưởng, tạo cơ hội để người đọc tự khám phá và nhận thức. Nhờ cách đặt mình vào vị trí của khán giả và dẫn dắt câu chuyện, Galileo đã khéo léo hướng công chúng ủng hộ thực nghiệm và khoa học hiện đại.

Đối thoại giữa nhà khoa học và công chúng giữ vai trò quan trọng trong việc phổ biến tri thức hàn lâm. Sự đối thoại không chỉ là cầu nối giúp khoa học gần gũi hơn với xã hội, với công chúng, mà còn là phương tiện để làm sáng tỏ các chân lý, khơi dậy tò mò và thúc đẩy tư duy phản biện.
Sự tiếp sức của ngành in và các tổ chức
Sự ra đời của máy in từ thế kỷ 15 đã xóa bỏ sự độc quyền sở hữu và tiếp cận tri thức của giáo hội và giới trí thức, vốn tồn tại kể từ thời Phục Hưng. Sự phổ biến của khoa học bước sang một trang mới vào thời cách mạng công nghiệp, khi cuộc cách mạng này vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã góp phần tạo nên một lượng độc giả cần kiến thức khoa học để ứng dụng vào thực tế. Trong giai đoạn này, một số tạp chí khoa học đại chúng và khoa học đại chúng đã xuất hiện, chẳng hạn như Nature, Scientific American và National Geographic. Ngoài ra còn có các tổ chức đặc biệt tham gia thúc đẩy sự phát triển của khoa học và phổ biến khoa học, chẳng hạn như Hiệp hội Anh và Hiệp hội Hoa Kỳ vì sự tiến bộ của khoa học.
Giai đoạn Xô viết chứng kiến một cách tiếp cận hệ thống đối với việc phổ biến kiến thức khoa học trên toàn Liên Xô. Xã hội Tri thức (Znanie) được thành lập năm 1947, sử dụng các công cụ truyền thông đại chúng để tổ chức các bài giảng, xuất bản tạp chí khoa học phổ thông, sản xuất phim và chương trình phát thanh, truyền hình. Bên cạnh đó, các câu lạc bộ khoa học, kỹ thuật và nghệ thuật dành cho học sinh và thanh niên cũng được tổ chức nhằm thúc đẩy tư duy khoa học.
Quá trình “dịch” không chỉ đơn thuần là dịch thuật từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, mà nó đòi hỏi người đưa ra thông điệp cần hiểu đối tượng nghe và khả năng đơn giản hóa mà không làm mất đi bản chất của kiến thức.
Việc phổ biến khoa học đang chuyển đổi các cách tiếp cận và công cụ để giải quyết các vấn đề phù hợp với nhu cầu của xã hội. Trên toàn thế giới, thuật ngữ science communication (giao tiếp khoa học) đã trở thành từ phổ biến trong lĩnh vực này. Trong 20 -30 năm qua, lĩnh vực nghiên cứu về giao tiếp khoa học phát triển dựa trên các hoạt động phổ biến khoa học, xã hội học, lý thuyết truyền thông đại chúng, báo chí, quan hệ công chúng (PR), bảo tàng học, và nhiều lĩnh vực khác (Ya V Danilina 2022).
Như vậy, vào thế kỷ 20, cùng với sự gia tăng trên diện rộng về số lượng ấn phẩm in, các phương tiện truyền thông đại chúng khác đã xuất hiện, giúp mở rộng hơn nữa lượng độc giả và sử dụng nhiều hình thức phổ biến khác nhau để phổ biến kiến thức khoa học.
Ngôn ngữ của phổ biến khoa học
Việc truyền tải kiến thức từ ngôn ngữ hàn lâm sang ngôn ngữ phổ thông không chỉ là kỹ thuật ngôn ngữ mà còn là khả năng thấu hiểu sâu sắc vấn đề. Một câu hỏi được đặt ra: vậy liệu trong cuộc đối thoại đó, nhà khoa học dùng ngôn ngữ nào? Liệu quá trình “dịch” từ ngôn ngữ khoa học sang ngôn ngữ bình dân có quá khó? Nhà thơ Nicolas Boileau (1636-1711) nói rằng : “Ce que l’on conçoit bien s’énonce clairement, Et les mots pour le dire arrivent aisément” (Điều gì mà ta hiểu rõ, ta ắt diễn đạt nó một cách trong sáng và cũng dễ dàng tìm thấy ngôn từ để biểu đạt). Vào đầu thế kỷ 20, nhà vật lý Albert Einstein cũng có quan điểm tương tự “Nếu bạn không thể giải thích được vấn đề một cách đơn giản, bạn chưa hiểu nó đủ tốt”. Câu nói này của Nicolas Boileau và Albert Einstein đều hàm ý rằng, sự rõ ràng trong tư duy là chìa khóa để diễn đạt một cách dễ hiểu.
Tuy nhiên, không phải mọi khái niệm khoa học đều dễ dàng chuyển đổi sang ngôn ngữ bình dân. Một số ý tưởng phức tạp hoặc chuyên sâu đòi hỏi sự sáng tạo trong cách diễn đạt mà vẫn giữ được độ chính xác. Như vậy, quá trình “dịch” không chỉ đơn thuần là dịch thuật từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, mà nó đòi hỏi người đưa ra thông điệp cần hiểu đối tượng nghe và khả năng đơn giản hóa mà không làm mất đi bản chất của kiến thức.
Chúng ta cũng không nên coi việc phổ biến khoa học là sự cắt giảm tri thức. Trong bài báo của mình, Raichvarg (2010) đã trích lại ý kiến của Bernard Schiele và Gabriel Larocque (1981); hai nhà nghiên cứu này cho rằng thông điệp phổ biến khoa học cần được xem như một thông điệp độc lập và riêng biệt, tuân theo các quy tắc biểu đạt riêng mà không nhất thiết phản ánh hoặc kéo dài các quy tắc của thông điệp khoa học hoặc giáo dục. Nếu coi việc phổ biến kiến thức hàn lâm chỉ như là sự chuyển dịch từ ngôn ngữ học thuật sang ngôn ngữ đại chúng, điều sẽ làm mất đi giá trị của sự sáng tạo và giá trị xã hội trong việc chuyển tải kiến thức học thuật sang một lối diễn đạt bình dị, dễ hiểu hơn. Trên hành trình sáng tạo đó, nhà khoa học hay người làm công việc phổ biến kiến thức vừa tái cấu trúc, vừa làm mới nội dung và tìm ra ngôn ngữ phù hợp nhằm truyền tải tri thức khoa học tới cộng đồng. □
——–
* TS. Phạm Kiều Ly (Trường Khoa học Liên ngành và Nghệ thuật, ĐHQGHN) nghiên cứu về Ngôn ngữ và Văn tự Việt Nam; Lịch sử chữ Quốc ngữ; Di sản tư liệu; Lịch sử chữ viết hệ Latinh của các ngôn ngữ các dân tộc tại Việt Nam; Lịch sử ngữ pháp tiếng Việt; Ngữ học truyền giáo.
Tài liệu tham khảo
Danilina Ya V, “Science Popularization as an Element of Innovative Communications”, Scientific and Technical Information Processing, 2022, 49(1):21-29. https://pmc.ncbi.nlm.nih.gov/articles/PMC9109445/
Larbaud, Valérie. 1946. Sous l’évocation de saint Jérôme, Paris : Gallimard (NRF).
Raichvarg, Daniel,“La vulgarisation des sciences : fausse « traduction » et vraie « interprétation »”, Hermès, La Revue, CNRS Éditions, 2010/1 n° 56:105-112. https://shs.cairn.info/revue-hermes-la-revue-2010-1-page-105?lang=fr
Schiele, Bernard., Larocque, Gabriel., « Le message vulgarisateur », Communications, n° 33, 1981.
———-
1. Bản Thánh Vịnh này dựa trên mô hình bản Kinh Thánh Septante được dịch từ tiếng Do Thái sang tiếng Hy Lạp từ thế kỷ III trước Công nguyên.
Bài đăng Tia Sáng số 11/2025