Phục hưng không gian công cộng: Trả mạch thở cho đô thị

Những chuyển mình gần đây ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đang tạo khởi đầu cho một cuộc “phục hưng không gian công cộng” thực sự, nơi người dân được trao quyền sử dụng đất công, hưởng thụ mảng xanh ở những vị trí đắc địa bậc nhất, và cảm nhận sự kết nối với lịch sử, thiên nhiên, với nhau.

Dải đất ven sông phía bên trái tấm ảnh là khu cảng Nhà Rồng – Khánh Hội. Ảnh: Người đô thị.

Giữa lúc bài toán đất công và các trụ sở dư thừa ở đô thị lớn vẫn chưa có lời giải, TP.HCM vừa có một cú ngoặt chủ trương gây tiếng vang. Hai khu đất vàng giữa trung tâm – cảng Nhà Rồng – Khánh Hội và khu đất số 1 Lý Thái Tổ – vốn bị “treo” nhiều năm – nay sẽ được chuyển đổi thành công viên, trả lại cho thành phố những mạch thở quý giá vốn bị bê tông và các dự án cao tầng lấp kín. Với hàng trăm ngàn lượt người đi qua mỗi ngày trong suốt cả chục năm, từ con đường Nguyễn Tất Thành – tuyến huyết mạch mỏng manh dọc khu đất được mệnh danh kẹt xe nhất thành phố – đến con đường Hùng Vương và Lý Thái Tổ dọc hàng rào kín cổng cao tường, đây là tin vui vỡ òa và tiếng thở phào.

Cùng nhịp đó, tại Hà Nội, khu đất “kim cương” phía Đông hồ Hoàn Kiếm – từng là trụ sở và nhà khách – đang được cải tạo thành quảng trường mới rộng 2,14 ha, tạo ra một “lối mở” thoáng đãng, phá vỡ bức tường kín bao quanh hồ lâu nay. Khi kết hợp với quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục mới, khu vực này sẽ hình thành một trục cảnh quan liên hoàn kết nối văn hóa, lịch sử và đời sống đô thị. Quảng trường mới sẽ là không gian công cộng trọng điểm có khả năng tập trung đông người, nơi mọi người dân và du khách có thể thư giãn, giao lưu, thưởng ngoạn và tham gia các hoạt động cộng đồng quanh hồ Gươm.

Đây không chỉ là những động thái quy hoạch. Đó là thông điệp về cách một thành phố có thể lấy lại cảnh quan, không gian sống và sự kết nối cộng đồng – một cơ hội để “thổi hồn” và trả lại phần nào “mạch thở” cho khu trung tâm thành phố vốn thiếu mảng xanh trầm trọng bấy lâu.

Điều đáng chú ý không chỉ là việc chuyển đổi mà còn là vị trí vàng của các khu đất này. Khu cảng Khánh Hội, rộng khoảng 31,5 ha (chưa kể khu Bến Nhà Rồng – Bảo tàng Hồ Chí Minh), được dự kiến dành khoảng 60% diện tích cho công viên, tương đương gần 19 ha không gian xanh, nằm ngay rìa quận 1 và đặc biệt ven sông Sài Gòn – điểm hóng mát, phóng tầm nhìn và đón gió vào thành phố đông đúc. Trong bối cảnh những công viên lớn nhất hiện nay trong trung tâm như Thảo Cầm Viên 16,8 ha, Central Park Tân Cảng khoảng 14 ha, thì 19 ha mảng xanh quý giá này sẽ trở thành lớn nhất. Trong khi đó, khu đất số 1 Lý Thái Tổ, rộng 3,7 ha – một mảng xanh lớn nằm giáp quận 1, giữa một khu dân cư và công trình xây dựng dày đặc – sẽ trở thành một “hành lang xanh” quan trọng, bổ sung mảng không gian công cộng hiếm hoi cho khu lõi trung tâm vốn đang thiếu thốn cây xanh và nơi cho người dân tụ tập, đi bộ hay thư giãn.

Khu đất vàng số 1 Lý Thái Tổ. Ảnh: Báo Sài gòn Giải phóng.

Những ví dụ này minh họa một tư duy mới trong phát triển đô thị: lựa chọn lợi ích toàn diện và bền vững cho cộng đồng, không chỉ vì lợi ích ngắn hạn của một nhóm nhỏ. Những chuyển mình này đang tạo nền móng cho một cuộc “phục hưng không gian công cộng” thực sự, nơi người dân được trao quyền sử dụng đất công, hưởng thụ mảng xanh ở những vị trí đắc địa bậc nhất, và cảm nhận sự kết nối với lịch sử, thiên nhiên, với nhau.

Cuộc “phục hưng không gian công cộng” đang hình thành?

Thành phố vận hành như một cơ thể sống, với nhịp đập và hơi thở riêng. Các đô thị lớn ở ta lâu nay quá tải, “bế khí” và mắc phải ba vấn nạn căn bản: ô nhiễm, kẹt xe, và ngập lụt. Nếu khu cảng Nhà Rồng – Khánh Hội sẽ biến thành khu phức hợp cao tầng như dự án trước đây, TP.HCM sẽ bị thêm một bức tường bê tông chắn gió từ sông vào, lòng chảo đô thị sẽ càng nóng, hiệu ứng “đảo nhiệt” sẽ thêm nghiêm trọng, và tầm nhìn ra sông Sài Gòn sẽ càng bức bối, ngột ngạt. Còn tại hồ Gươm, lâu nay đi vòng quanh hồ chỉ thấy các bức tường nhà, ngoại trừ quảng trường Lý Thái Tổ và Đông Kinh Nghĩa Thục là những lối mở hiếm hoi. Việc mở rộng không gian tại các vị trí chiến lược quanh hồ sẽ đem lại sự thông thoáng, cải thiện trải nghiệm đô thị và đem lại hình ảnh đô thị khác hẳn cho trái tim thủ đô.

So với tiêu chuẩn cây xanh quốc tế khuyến nghị từ 9-15 m²/người, Hà Nội hiện vẫn chỉ đạt khoảng 2 m², còn TP.HCM chỉ vỏn vẹn 0,6 m². Điều này đồng nghĩa với việc, mỗi mét vuông mảng xanh mới mở sẽ đều quý giá như vàng. Việc khai thông các “huyệt đạo” đất vàng chính là mở “mạch thở” cho đô thị, với những giá trị dễ nhận diện như mảng xanh, hành lang gió và tạo tuyến cảnh quan và văn hóa. Phần vô hình hơn là cải thiện bầu không khí và tăng bề mặt thấm nước cho đô thị, giúp giảm ngập – căn bệnh trầm kha ở các thành phố lớn hiện nay. Ngoài ra, khi nước mưa thấm được nhiều hơn xuống đất thì sẽ bổ sung và làm căng đầy những mạch nước ngầm, nhờ đó giảm được sụt lún đang ngày một nhiều hiện nay. Trong mạch chuyển mình của các dự án nâng cấp không gian công cộng, dự án hồi sinh sông Tô Lịch và xây công viên ven sông cũng góp thêm niềm lạc quan tin tưởng. 

Red Brick Warehouse ở Yokohama. Ảnh: Shutterstock.

Thông điệp của chính sách và sáng kiến như đang rõ ràng lên: đất công không được phép lãng phí, và lợi ích cộng đồng luôn là ưu tiên dài hạn.

Một thành phố chỉ thật sự vĩ đại khi trao lại phần đất vàng, đất kim cương quý giá nhất của mình cho toàn dân. Trong lịch sử, đã từng có những tấm gương được người đời ghi nhận, như Nguyễn Công Trứ xin triều đình cho phép dân khai hoang lập làng trên đất công hoang ven biển Nam Định, Hà Tĩnh. Sau này, ông được nhớ đến như một nhà lãnh đạo khai phóng và đặt lợi ích cộng đồng lên trên hết.

Bốn chiều cạnh bền vững của không gian công cộng trong đô thị

Khi một thành phố biến đất vàng, kim cương thành công viên hay quảng trường, nó không mất đi tài sản, mà ngược lại, kích hoạt chuỗi lợi ích trên bốn chiều cạnh bền vững: xã hội, văn hóa, môi trường và kinh tế.

Về xã hội, mỗi mét vuông công viên là một mét vuông công bằng xã hội. Khi hai khu đất vàng ở TP.HCM trở thành công viên, hàng vạn, hành triệu người dân thành phố thuộc mọi lứa tuổi, tầng lớp và cả du khách sẽ có không gian để hít thở, thư giãn, vui chơi và giao lưu. Kế hoạch dựng tượng đài tưởng niệm nạn nhân Covid-19 tại khu đất số 1 Lý Thái Tổ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, tạo nên hình ảnh “thành phố nghĩa tình” vốn là một từ khóa trong định hướng phát triển của thành phố.

Những không gian công cộng mới giúp khơi dậy cảm giác thực sự thuộc về nơi chốn (sense of belonging, place attachment) cho mọi người. Trong đô thị hiện đại, các công viên công cộng cũng có nhiều mức “mở”. Bác đạp xe ba gác, chị đẩy xe bò bía rong, cậu bé đánh giày hay thậm chí người vô gia cư có thể tạm “tá túc” ở một góc công viên 30-9, Tao Đàn hay Lê Văn Tám. Nhưng họ có thể không dám bước vào Central Park Tân Cảng – dù về mặt danh nghĩa, nó cũng là công viên công cộng – bởi cảm giác không gian “sang chảnh” dưới chân tháp Landmark 81 này không dành cho mình. Điều này cũng tương tự như khi họ định bước chân vào một trung tâm mua sắm sang trọng mà về lý thuyết là không gian công cộng không giới hạn ai.

Trong thiết kế đô thị, cả ba yếu tố “điểm”, “diện” và “tuyến” đều quan trọng và có vai trò khác nhau. Quảng trường và công viên đem lại điểm và diện – hỗ trợ chức năng tập trung con người. Còn các công viên trải dài kiểu tuyến tính như công viên ven sông Tô Lịch trong tương lai lại cho vai trò “tuyến” – hỗ trợ vận động như đi dạo, chạy hay đạp xe. Nhìn ra khu vực, Seoul đã thành công với chuỗi công viên ven sông Hàn và dự án khôi phục suối Cheonggyecheon một dự án lọt vào hàng kinh điển của ngành quy hoạch và phát triển đô thị thế giới, khai thác được cả ba yếu tố điểm – tuyến và diện. Thị trưởng Lee Myung-bak khi đó đã dũng cảm phá bỏ trục đường trên cao xuyên tâm, xây hành lang công viên sống động với nhiều kiểu không gian khác nhau – vừa thu hút du khách, tăng nguồn thu, vừa cải thiện an ninh khu vực. Tô Lịch hoàn toàn có thể trở thành “Cheonggyecheon của Hà Nội”, mở ra điểm sáng mới cho Hà Nội với tư cách một thành viên trong mạng lưới thành phố sáng tạo và sinh thái.

Watertoren GWL ở Hà Lan – nơi tháp nước được giữ làm điểm nhấn giữa khu nhà ở cao cấp cải tạo từ nhà ở công nhân cũ.

Về văn hóa, công viên và quảng trường không chỉ là nơi nghỉ ngơi, giao lưu, mà còn là không gian kiến tạo và lưu giữ ký ức (lieux de mémoire – theo nhà sử học Pierre Nora). Bến Nhà Rồng gắn liền với hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Bác. Trong khi đó, khu cảng Khánh Hội là một trong số ít di sản công nghiệp còn sót lại của Sài Gòn. Nó nhắc nhở chúng ta bài học về việc “xóa sạch” khu di sản đóng tàu Ba Son.

Với quy hoạch tinh tế và cách tiếp cận “cải tạo thích ứng” (adaptive reuse), thành phố có thể giữ lại một nhà xưởng nhỏ và tháp nước cũ trăm năm tuổi. Chúng có thể được biến thành khu nghệ thuật sáng tạo, cửa hàng, quán bar giữa công viên. Giống như Red Brick Warehouse ở Yokohama, từ kho hàng gạch đỏ đầu thế kỷ 20 phục vụ cảng thương mại quốc tế, phần ruột khu nhà và sân giữa được cải tạo thành trung tâm thương mại, nhà hàng, không gian văn hóa và sự kiện. Tất cả vẫn giữ nguyên kiến trúc nguyên bản. Tháp nước, sau khi gia cố, có thể trở thành đài quan sát. Chân tháp có thể đặt sân khấu ngoài trời, kết hợp chiếu sáng nghệ thuật như Watertoren GWL ở Hà Lan, nơi tháp nước được giữ làm điểm nhấn giữa khu nhà ở cao cấp cải tạo từ nhà ở công nhân cũ. Bài học là những công trình công nghiệp cũ, nếu được “thổi hồn” đúng cách, vừa bảo tồn ký ức vừa phục vụ đời sống hiện đại.

Khi kết hợp triển lãm, cà phê, nhạc sống, sân chơi thể thao, vườn hoa và lối dạo, công viên Nhà Rồng sẽ đem lại không gian hoàn toàn mới cho các công trình văn hóa sống động. Đây là một thủ pháp thông minh và chiến lược để tái sinh bản sắc đô thị, thay vì phá bỏ hay “bảo tàng hóa” di sản. Còn gì tuyệt hơn cảm giác được đi dạo giữa không gian xanh rộng mở, nghe tiếng sóng vỗ và gió thổi từ sông Sài Gòn, tận hưởng trọn vẹn bầu không khí đô thị vừa mang hơi thở hiện đại, vừa vang vọng những ký ức lịch sử thấm đẫm trên từng bức tường hay ô cửa di sản.

Trên góc độ môi trường, đây là tầng giá trị quan trọng hàng đầu. Như đã nói trên, mỗi mét vuông công viên là một mét vuông “lá phổi xanh” và hạ tầng xanh sinh thái, giúp giảm ô nhiễm khí, thấm nước, giảm ngập và chống sụt lún. Với công viên ven sông còn là đón gió, hóng mát. Với dải đất Khánh Hội dài và hẹp, khi mở rộng đường Nguyễn Tất Thành, có thể thiết kế phần mở rộng ngầm dưới đất như công viên Madrid Río Park (Tây Ban Nha) để tối đa hóa diện tích công viên trên mặt đất, kết nối bãi đỗ xe ngầm dưới công viên. Đảm bảo một bề rộng nhất định là cần thiết để có thể bố trí cảng tàu quốc tế, sân thể thao ngoài trời, sân khấu hay nhà triển lãm mà nếu hẹp quá sẽ khó thực hiện. 

Ngoài ra, mô hình công viên Centenary Park (Bangkok) cũng rất đáng tham khảo. Công viên này được thiết kế độc đáo và sáng tạo với mặt bằng nghiêng 3 độ. Nước mưa chảy dồn về hồ điều tiết và bể ngầm khổng lồ ở cuối công viên, giúp giảm ngập cho Bangkok. Lượng nước thu trữ được lại được tái sử dụng để tưới tiêu trong những ngày nóng. 

Còn góc độ kinh tế, như một nghịch lý thú vị, khi một thành phố ngừng đếm lợi nhuận ngắn hạn, nó lại sinh ra lợi ích lớn hơn. Một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (2018) cho thấy mỗi đô la đầu tư vào không gian công cộng có thể tạo ra 4-6 USD giá trị kinh tế gián tiếp, thông qua thu hút khách du lịch, tăng giá trị bất động sản xung quanh, và tăng sức hấp dẫn đầu tư.

Giá trị thực không nằm ở tiền thu ngay, mà ở “hiệu ứng mạng lưới” (network effect) – nơi hàng triệu người là những “đỉnh” của một một mạng lưới xã hội rộng lớn. Khi họ được giao lưu và kết nối sẽ tạo ra năng lượng vốn xã hội, lực tiêu dùng, sức sáng tạo và nâng tầm khả năng đáng sống lên cho thành phố. Ngoài ra, ngày nay chúng ta thực chứng ngày một nhiều quy luật đô thị gọi là hiệu ứng lan tỏa (ripple effect), nơi mà một số dự án trọng điểm mọc lên sẽ tạo xúc tác mạnh như vết dầu loang. Hiệu ứng này giúp nâng chất lượng sống và cả giá trị bất động sản của cả khu vực lên, như đã thấy ở khu vực quanh Trung tâm Triển lãm Quốc gia mới với nhiều khu đô thị vây quanh ở Hưng Yên hiện nay. Tương tự, dự án công viên Bến Nhà Rồng mới có thể giúp tăng kết nối liền mạch hơn từ Bến Bạch Đằng tới Thủ Thiêm. Qua đó, toàn bộ bản đồ du lịch và đời sống ven sông Sài Gòn có thể sang trang. 

Bước đi chiến lược nào cho tương lai?

Về bài toán quy hoạch và thiết kế cho các không gian công cộng mới được “khai phóng”, lý tưởng nhất là đặt ra lộ trình thời gian hợp lý, trong đó có đủ thời gian để tổ chức các cuộc thi quy hoạch – thiết kế chuẩn quốc tế, đặt đầu bài thi theo cả bốn chiều cạnh bền vững như đã trình bày. Điều này vừa đảm bảo chất lượng quy hoach – thiết kế, vừa tạo cơ hội để cộng đồng, chuyên gia, các nhà quản lý và nhiều bên tham gia khác cùng chung tay định hình nên không gian công cộng đáng giá ấy.

Tuy nhiên trên thực tế đang có những tiến triển khác nhau. Khu đất 1 Lý Thái Tổ đang được triển khai quá nhanh với mốc thời gian phải xong trước tết 2026. Nhưng hiện chưa có cuộc thi thiết kế nào được tổ chức. Phương án cuối cùng cũng chưa rõ ràng. Một số chuyên gia tâm khuyết đang lên tiếng đề xuất bảo tồn chỉnh trang các biệt thự cũ, biến một số công trình thành bảo tàng. Đây là hướng đi đúng đắn, vừa gìn giữ di sản vừa tạo không gian mở cho cộng đồng. Tuy nhiên việc dọn dẹp địa điểm không dừng lại ở phát quang không thôi, mà đang có dấu hiệu phá bỏ vài trong số 7 biệt thự của gia tộc chú Hỏa, gây quan ngại trong giới chuyên môn và những người yêu di sản. Còn với khu công viên Nhà Rồng – Khánh Hội, việc chưa có kế hoạch cụ thể như hiện nay lại là điều may, vì còn có cơ hội cho những bước đi cẩn trọng và cần thiết như nghiên cứu, thi tuyển, triển khai phương án và điều chỉnh.


Một thành phố chỉ thật sự vĩ đại khi trao lại phần đất vàng, đất kim cương quý giá nhất của mình cho toàn dân. Trong lịch sử, đã từng có những tấm gương được người đời ghi nhận, như Nguyễn Công Trứ xin triều đình cho phép dân khai hoang lập làng trên đất công hoang ven biển Nam Định, Hà Tĩnh. Sau này, ông được nhớ đến như một nhà lãnh đạo khai phóng và đặt lợi ích cộng đồng lên trên hết.

Nhìn ra khu vực, thế giới đã có nhiều dự án công viên ven sông thành công. Công viên Yamashita (Yokohama, Nhật Bản) biến đất cảng hư hại sau động đất 1923 thành công viên ven vịnh đầu tiên, mở ra truyền thống tái sinh đất công nghiệp-cảng thành không gian xanh, vui chơi và bến cảng quốc tế sầm uất. Công viên Seonyudo (Seoul) chuyển đổi nhà máy xử lý nước thải cũ thành công viên đảo xanh giữa lòng sông Hàn – một mẫu mực “biến hạ tầng xám thành hạ tầng xanh”. Còn ở Trung Quốc, công viên ven sông Vũ Hán Dương Tử  đã biến bờ sông từng ngập lụt thành dải công viên chống lũ dài hàng chục cây số, vừa là “đê mềm” sinh thái cho phép ngập bán phần, vừa là không gian công cộng biểu tượng của thành phố.

Khi lợi ích toàn diện đã hiện rõ, câu hỏi đặt ra là làm sao biến những dự án đơn lẻ này thành chiến lược tổng thể, chứ không chỉ là vài mảng đất rời rạc. Câu trả lời nằm ở tư duy quản trị có tầm vóc, kết hợp giữa khoa học kĩ thuật, thiết kế đô thị, kinh tế và quản trị công.

Thay vì triển khai toàn bộ ngay, nên áp dụng quy trình tiên tiến: thử nghiệm theo chuỗi nhỏ trước khi nhân rộng. Quy trình truyền thống thường bỏ qua bước thử nghiệm này và triển khai ngay trên toàn quy mô. Cách này dễ dẫn tới rủi ro: sai sót thiết kế khó sửa, cộng đồng dễ phản ứng, chi phí tăng. Ngược lại, thử nghiệm quy mô nhỏ với chi phí thấp cho phép thu thập phản hồi, điều chỉnh và tinh chỉnh. Nhờ đó, thiết kế cuối cùng mới đạt hợp lý, hiệu quả và thẩm mỹ nhất. Trên thế giới, nhiều dự án đã áp dụng cách tiếp cận này, từ công viên đô thị đến quy hoạch khu trung tâm, và đều thành công.

Tài chính là bài toán khó, cần kết hợp vốn công và cơ chế hợp tác công-tư (PPP).

Về vốn công, cần sử dụng hiệu quả nhất thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành liên quan, tránh tình trạng để tiêu vốn công thì “ngành này vừa lấp đi, ngành kia đã đào lại”. Ví dụ, công viên Yamashita có khu phức hợp 3-trong-1 đáng học hỏi về sử dụng vốn công: tầng trệt là bãi đỗ xe và trạm buýt du lịch, tầng mái là công viên trên cao nhìn ra vịnh, hai tầng hầm là trạm bơm nước chống ngập. Ba ngành giao thông, cây xanh và thoát nước cùng góp vốn, cùng vận hành và cùng hưởng lợi.

Với cơ chế hợp tác công-tư, nguyên tắc quan trọng nhất là giữ lợi ích công, không để lợi ích tư lấn át. Một mô hình hiệu quả là lập pháp nhân độc lập – Special Purpose Vehicle (SPV) – để điều phối toàn bộ dự án Một liên minh đa bên hiệu quả thường gồm: Nhà nước (đại diện lợi ích công, định hướng, điều phối, giám sát rủi ro); tư nhân (từ hai doanh nghiệp trở lên, phân vai theo năng lực góp vốn, kỹ thuật, vận hành và giám sát chéo); cố vấn và giám sát độc lập (đảm bảo khách quan, minh bạch); và đối tác quốc tế (nếu có – góp vốn hoặc chia sẻ kinh nghiệm).

Ngoài ra, có thể lập sàn giao dịch đất và trụ sở công để xã hội hóa quá trình chuyển đổi, đồng thời áp dụng các công cụ mới như “chuyển quyền phát triển không gian” (Transfer of Development Right) để tăng nguồn thu công.

Một bước quan trọng khác là số hóa và minh bạch toàn bộ quỹ đất công và trụ sở công. Từ đó, nghiên cứu các dự án chuyển đổi thành công viên, quảng trường, sân chơi hay chợ dân sinh. Đây cũng là cách để đa dạng hóa các nhu cầu dân sinh cốt lõi, bên cạnh các định hướng trường học, trạm xá đã đưa ra trước đây. Ngay cả những mảnh đất nhỏ cũng có thể trở thành “công viên xen cấy” (pocket park) hay vườn cộng đồng (community garden). Quy trình cần minh bạch và đảm bảo sự tham gia rộng rãi của các bên liên quan ở nhiều công đoạn. Thành phố cũng nên có quỹ duy trì công viên và cho phép cộng đồng tham gia chăm sóc, giám sát các không gian xanh quanh mình.

Để chuyển hóa đất công thành không gian công cộng bền vững, Hà Nội và TP.HCM cần một chiến lược toàn diện dựa trên ba từ khóa: xanh – thích ứng – mở.

“Xanh” là sinh thái, là mở đường để thiên nhiên trở lại trong đô thị. Như đã phân tích, không gian công cộng không chỉ dừng ở lát nền hay trồng cây đơn lẻ, mà phải kiến tạo được một hệ thống hạ tầng xanh đa tầng và đa chức năng, với hai trục chính là cây xanh và mặt nước hiện diện dưới nhiều dạng thức để điều hòa vi khí hậu, dẫn gió, giảm ngập và tạo mạch cảnh quan liên tục.

“Thích ứng” là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh khí hậu cực đoan. Để công viên và quảng trường vận hành hiệu quả, cấu trúc không gian cần có khả năng phục hồi: trữ nước khi mưa, giải nhiệt khi nắng, chuyển đổi chức năng theo nhu cầu cộng đồng. Tích hợp khả năng chống chịu vào thiết kế ban đầu sẽ giảm chi phí vận hành, kéo dài tuổi thọ công trình và đảm bảo không gian công cộng thực sự đóng vai trò hạ tầng thiết yếu.

“Mở” là mở đất, mở tầm nhìn cảnh quan và mở lòng với cộng đồng. Thách thức lớn nhất là bảo đảm quyền tiếp cận công bằng, để không gian công cộng xuất hiện ở mọi quận, mọi khu phố và ai cũng có thể sử dụng. Điều này đòi hỏi quy trình thiết kế và cơ chế quản lý minh bạch và có sự tham gia của cư dân, để họ cảm nhận quyền sở hữu chung và cùng duy trì, định hình những không gian mình sử dụng hằng ngày. Khi cộng đồng hiện diện và đồng hành, không gian tự nhiên trở nên sống động và gắn kết hơn.

Khi ba trụ cột này được triển khai đồng bộ, không gian công cộng sẽ trở thành tâm điểm của đời sống đô thị, vừa đáp ứng hiện tại vừa chuẩn bị cho tương lai. Nó cũng gửi đi thông điệp rõ ràng: Hà Nội, và TP.HCM đang hướng đến hình ảnh một đô thị sống động, cởi mở và tôn trọng con người lẫn thiên nhiên.

Thay lời kết…

Từ Bến Nhà Rồng đến Hồ Gươm, từ số 1 Lý Thái Tổ đến sông Tô Lịch, hai đầu đất nước đang viết nên chương mới cho hướng tái phát triển đất công một cách thông minh, hiệu quả và nhân văn. Bản thân việc “trả lại đất vàng cho cộng đồng” là một cuộc cách mạng về nhận thức. Ở đó, chính quyền, chuyên gia, doanh nghiệp và người dân cùng tham gia, cùng chia sẻ và cùng tạo ra giá trị lâu dài. Giá trị ấy hiện hữu từ sự xanh mát, thông thoáng, đến ký ức lịch sử, giao lưu văn hóa, và cả sự tăng trưởng kinh tế gián tiếp nhờ hiệu ứng mạng lưới xã hội.

Không gian công cộng luôn là những “phòng sinh hoạt chung” của thành phố, nơi con người, thiên nhiên, văn hóa và ký ức gặp nhau, tạo nhịp sống sôi động cho đô thị. Khi đô thị đã quá đông đúc, ngột ngạt và ô nhiễm, quyền có mạch thở trong thành phố là quyền chính đáng của mỗi công dân. 

Không chỉ là quyền trên giấy, mạch thở cần hiện hữu bằng những công viên, quảng trường hay đường dạo bờ sông. Nơi chúng ta tản bộ, thư giãn, giao lưu mỗi ngày, và cảm nhận trọn vẹn hơn sự kết nối với thành phố mình đang sống. Một đại đô thị có thể bớt đi vài tòa tháp, nhưng không thể thiếu những chốn như vậy. Bởi chính những mạch thở ấy mới tạo nên linh hồn của thành phố.

Khi đất được đo không phải bằng mét vuông sàn – mà bằng mét vuông cây xanh, mặt nước, sân chơi – đô thị ấy mới thật sự “giàu có”, bản sắc và nhân văn. 

Không chỉ cho hôm nay. Mà cho cả thế hệ mai sau.□

Bài đăng Tia Sáng số 22/2025

Tác giả

  • TS. KTS. Tô Kiên hiện là quy hoạch sư cao cấp kiêm quản lý tại tập đoàn Tư vấn Phát triển Hạ tầng Eight-Japan (Tokyo), giảng viên cao cấp ĐH UEH (TP HCM) và giảng viên thỉnh giảng ĐH Quốc gia Yokohama.
    Với gần 30 năm sự nghiệp, TS. Tô Kiên đã viết trên 100 bài báo chuyên ngành về các chủ đề phát triển đô thị bền vững. Ông cũng đồng chủ trì một số dự án quy hoạch thiết kế bền vững và quy hoạch có sự tham gia của cộng đồng tại Việt Nam, Singapore, Nhật Bản, Thái Lan, Indonesia, và nhận một số giải thưởng, bằng khen từ nhiều tổ chức trong và ngoài nước.

    View all posts
(Visited 9 times, 9 visits today)