Sử học Toàn cầu: Một cách tiếp cận mới
Theo xu hướng toàn cầu hóa từ cuối thế kỷ XX, phương pháp luận sử học trên thế giới cũng có những chuyển biến lớn, trong đó có sự phát triển của phương pháp luận sử học toàn cầu (global history) [1]. Trong loạt bài về vấn đề này, GS Momoki Shiro, Đại học Quốc gia Osaka, Nhật Bản giới thiệu về phương pháp luận lịch sử toàn cầu, những ảnh hưởng và vai trò của nó trong việc phân tích lịch sử cổ trung đại Việt Nam.
‘Khu vực tiếp xúc’ và ‘Khu vực được bảo vệ’ ở lục địa Âu-Á theo lý thuyết của Victor Lieberman. Nguồn: Momoki Shiro. Bản đồ đã đăng trong Shinsho Sekaishi B (Nxb Teikoku Shoin, 2018, tr. 9).
Khắc phục truyền thống lấy châu Âu làm trung tâm
Quan điểm này đã đóng vai trò để cổ vũ cuộc đấu tranh chống đế quốc, thực dân, gìn giữ chủ quyền, giành lại độc lập v.v. của nhân dân thế giới. Nhưng đến cuối thế kỷ XX, trước quá trình toàn cầu hóa (globalization) và các hiện tượng hậu hiện đại (post-modernism), những trào lưu sử học mới đã nổi lên hướng tới những đề tài và khuôn khổ mới vốn trước đó từng bị coi thường. Trong đó có ngành Lịch sử xã hội (social history) phát triển ở các nước Pháp, Anh, Đức, Ý… vào những năm 1970 và 19803, vừa coi trọng Lịch sử vi mô (micro history) nghiên cứu đời sống hàng ngày và ý thức chủ quan của dân thường, vừa coi trọng Lịch sử vĩ mô (macro history) về dân số, môi trường v.v. quan sát qua biến đổi trường kỳ và không gian siêu quốc gia.
Kế thừa nhiều quan điểm của Lịch sử xã hội, Lịch sử Toàn cầu (global history) bắt đầu phát triển từ thập niên 1990, trước hết ở Mỹ, Đức, Anh, Nhật… Phương pháp Lịch sử toàn cầu nhấn mạnh tầm nhìn rộng về không gian lẫn thời gian sự liên ngành giữa KHTN và KHXH&NV. Nó chủ trương kết hợp các tầm nhìn toàn cầu, khu vực (regional), quốc gia (national), địa phương (local), và mạng lưới (network) trong thay đổi, quan hệ và so sánh để hiểu biết toàn diện về các đối tượng nghiên cứu. Các đề tài thường được lựa chọn là sự dịch chuyển – trao đổi của con người; của vật chất và hàng hóa, tiền tệ; của kỹ thuật, thông tin và hình ảnh v.v.. Các đặc trưng đó phản ánh sự phát triển chung của tư duy khoa học từ quan điểm truyền thống (xây dựng trên cơ sở logic nhất nguyên và nhị nguyên coi trọng tính khách quan) tìm một biến số độc lập/bản chất mang tính chất trừu tượng như là yếu tố quyết định toàn thể; đến quan điểm biện chứng hơn (trên cơ sở logic đa nguyên coi trọng quan hệ) muốn tìm hiểu hình dạng cụ thể, tác động qua lại đa nguyên-đa chiều giữa nhiều biến số/yếu tố.
Nhằm thực hiện các phương pháp luận đầy tham vọng nói trên, giới nghiên cứu sử học toàn cầu chú trọng một số khía cạnh: Về mặt tổ chức nghiên cứu, nó coi trọng sự hợp tác của nhiều chuyên gia (thuộc nhiều ngành, nhiều nước…). Về sử liệu, nó cố gắng kết hợp hài hòa cả việc tìm hiểu sâu sắc các sử liệu gốc, lẫn việc khai thác rộng rãi và sử dụng chính xác các tài liệu thứ cấp. Về nội dung, nó cố gắng xây dựng phương pháp để nghiên cứu về các giai đoạn trước thế kỷ XVI – kể cả thời nguyên thủy – mà trước đây bị coi là không có giao lưu toàn cầu. Ngoài ra, đó là việc khắc phục truyền thống Euro-centric của sử học (Frank 1998; Pomerantz 2000).
Đối với khu vực Đông Á-Đông Nam Á, các nhà sử học tranh luận sôi nổi xem thời kỳ nào đã trải qua biến đổi quan trọng hơn? – Biến cách Đường-Tống; Giai đoạn “Nguy cơ Toàn diện – thế kỷ XIV”; hay biến đổi cuối Minh đầu Thanh? Các tranh luận này gắn liền với lĩnh vực nghiên cứu thiết chế chính trị và ý thức quốc gia của Trung Quốc và các nước lân cận trong “Thế giới Trung Hoa”, từ đó đưa đến các khuôn khổ phân kỳ mới trong nghiên cứu, liên quan đến việc phân biệt rõ các giai đoạn phát triển của mô hình đế chế Trung Hoa; như giai đoạn biến thiên của cơ chế triều cống-sắc phong giữa Trung Quốc và các nước lân cận – từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển của các thiết chế chính trị, kinh tế và cả ý thức ‘Thiên hạ’,‘Hoa-Di’ và ý thức cộng đồng chính trị-văn hóa ở các nước này.
Mặt khác, các nhà sử học cũng thảo luận nhiệt tình về cách nhận thức về ‘khu vực’. Chẳng hạn, để hiểu về lịch sử Việt Nam, tùy theo đề tài/phương pháp nghiên cứu mà có thể xem xét các khuôn khổ khu vực khác nhau như Đông Á, Đông Nam Á và Đông Bắc Á, Phía Đông khu vực Âu-Á. Xét trên cách tiếp cận sử học toàn cầu, quan điểm lý thuyết về ‘Khu vực tiếp xúc (Exposed Zone)’ và ‘Khu vực được bảo vệ (Protected Zone)’ ở lục địa Âu-Á của học giả Mỹ Victor Lieberman (2003; 2009) đặc biệt lý thú. ‘Khu vực tiếp xúc’ chạy dài theo chiều Đông-Tây từ Trung Quốc đến Trung Cận Đông và Đông Âu, ở đó các xã hội nông nghiệp và xã hội du mục thường xuyên tiếp xúc với nhau – tạo điều kiện hình thành các nền văn minh cổ đại và sự phát triển của các đế chế đa dân tộc-đa văn hóa lớn mạnh với cơ chế quản lý có hiệu quả (từ cổ đại đến thế kỷ XVII). Còn ‘Khu vực được bảo vệ’ bao gồm các xã hội nông nghiệp xung quanh khu vực tiếp xúc như lục địa Đông Nam Á, Nhật Bản, Tây Âu và Bắc Âu… ít bị tấn công của thế lực du mục, trừ đế chế Mông Cổ. Trong khoảng năm 800-1830, ở đây có nhịp điệu chung về quá trình củng cố tính thống nhất chính trị-văn hóa. Quá trình hình thành phát triển quốc gia ở khu vực này diễn ra muộn hơn ‘khu vực tiếp xúc’, quy mô lãnh thổ quốc gia đều không lớn bằng các đế quốc ở ‘khu vực tiếp xúc’, nhưng đến khoảng năm 800-1300 chúng trải qua một giai đoạn cố kết gọi là các ‘chính quyền hiến chương’ (charter state). Thiết chế này tạo ra các cộng đồng chính trị-văn hóa có tính đồng chất cao hơn và thiết chế chính trị-quân sự được tổ chức chặt chẽ hơn so với các đế quốc trong ‘khu vực tiếp xúc’, do đó tạo ra sức mạnh phản kháng bền bỉ chống đế chế Nguyên Mông [thể hiện ở việc các vương triều ở Đông Nam Á, Nhật Bản đều ngăn cản các cuộc xâm lược của quân Mông Cổ trong thế kỷ XIII (TS)]. Cộng đồng chính trị-văn hóa đó tiếp tục phát triển trong giai đoạn sơ kỳ cận đại và hình thành nền tảng quốc gia-dân tộc cận đại (hiện tượng ít xảy ra ở ‘khu vực tiếp xúc’).
Trong xã hội tiểu nông ở Đông Á, tầng lớp tiểu nông đóng vai trò chính trong làng xã và chịu ảnh hưởng của tư tưởng và nghi lễ Nho giáo trường phái Chu Hi, như thể hiện trong cảnh lớp học ở nông thôn thời Joseon này. Nguồn: National Museum of Korea.
Với phân tích lịch sử kinh tế – xã hội Đông Á-Đông Nam Á
Ngoài ra, vấn đề xã hội nông nghiệp và nông dân Đông Á-Đông Nam Á cũng được quan tâm rộng rãi. Dù hình thức tiểu nông luôn phổ biến trong bất kỳ xã hội nông nghiệp nào, nhưng ở Đông Á đã dần hình thành một mô hình gọi là ‘xã hội tiểu nông kiểu Đông Á’ (Miyajima 1994) ở các trung tâm nông nghiệp tại Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản trong giai đoạn 1000-1750.
Nhờ ảnh hưởng của khí hậu ấm áp thời kỳ Trung đại, mật độ dân số đã tăng trưởng khá nhanh ở các trung tâm này. Nhưng nhờ kỹ thuật thâm canh và tinh thần kinh doanh tích cực nên nền sản xuất ở đây vẫn duy trì ổn định hơn nền sản xuất ‘đại nông’ sử dụng đầy tớ hoặc nô tỳ. Trong xã hội tiểu nông đó, ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trường phái Chu Hi đã dần dần gây ra sự thay đổi của mô hình hôn nhân – gia đình – họ hàng từ lưỡng hệ (không phải mẫu hệ) nơi địa vị và quyền lợi của phụ nữ còn tương đối cao sang phụ hệ – gia trưởng.
Việt Nam (Đại Việt) là một khoảng trống?
Rõ ràng là muốn thảo luận các vấn đề trên thì đều phải đề cập đến lịch sử Việt Nam, tuy nhiên, ngay cả các công trình lịch sử toàn cầu của Lieberman (2003, 2009) hay lịch sử Đông Nam Á của Anthony Reid (2016) chỉ viết về Việt Nam một cách sơ sài vì thiếu điều kiện tiếp cận với thành tựu nghiên cứu của giới sử học Việt Nam – vốn ít được công bố bằng tiếng Anh. Các nhà sử học trên thế giới rất cần thông tin đầy đủ hơn nếu muốn tìm hiểu bối cảnh toàn cầu của lịch sử Việt Nam. Đó sẽ là chủ đề của phần sau, khi tác giả sẽ đề cập đến một số thay đổi gần đây của lý luận sử học liên quan đến lịch sử cổ trung đại Việt Nam là chuyên môn hẹp của mình.
Ảnh: USSH.
Tài liệu tham khảo:
Abu-Lughod, Janet. 1989. Before European Hegemony: The World System A.D.1250-1350, Oxford University Press.
Conrad, Sebastian 2018. What is Global History? Princeton University Press.
Frank, Andre Gunder 1998. ReOrient: Global Economy in the Asian Age, Cambridge University Press.
Geertz, Clifford. 1963. Agricultural Involution: The Processes of Ecological Change in Indonesia, Berkeley, Los Angeles, and London: University of California Press.
Haneda Masashi 2018. Global-ka to sekaishi (Toàn cầu hóa và lịch sử thế giới), Nxb Đại học Quốc gia Tokyo.
Lieberman, Victor. 2003, 2009. Strange Parallels: Southeast Asia in Global Context, c.800-1830, 2 tập, Cambridge University Press.
Miyajima Hiiroshi 1994. “Higashi Ajia niokeru shono shakai no seiritsu”, Mizoguchi, Hamashita, Hiraishi, Miyajima (ed.), Ajia kara kangaeru 6: Choki shakai hendo (Sự hình thành của xã hội tiểu nông ở Đông Á, trong Suy nghĩ từ châu Á tập 6, Biến động xã hội trường kỳ), Nxb Đại học Tokyo, tr. 67-96.
Mizushima Tsukasa 2010. Global History nhumon (Nhập môn lịch sử toàn cầu), Tokyo: Nxb Yamakawa.
Pomeranz, Kenneth 2000. The Great Divergence, China, Europe, and the Making of Modern World Economy, Princeton University Press.
Reid, Anthony 2016. A History of Southeast Asia, Critical Crossroads, Chichester: Wiley Blackwell.
Sugihara Kaoru 2003. “The East Asian Path of Economic Development: A Long-term Perspective” trong Giovanni Arrighi, Takeshi Hamashita and Mark Selden eds., The Resurgence of East Asia: 500, 150 and 50 Year Perspectives, Routledge, London, tr.78-123.
Chú thích:
1 Về phương pháp luận lịch sử toàn cầu, xem Manning (2003), Mizushima (2010), Conrad (2018), Haneda (2018)… Trường phái lịch sử toàn cầu có tạp chí Journal of Global History. Một số tổ chức sử học quốc tế cũng chú trọng phương pháp luận lịch sử toàn cầu như WHA (World History Association của Mỹ), AAWH (Asian Association of World Historians). EN (European Network of World and Global History).
2 Chúng ta cần phải chú ý đến một điều là: khái niệm “dân tộc” giữa các nước Đông Á được sử dụng chung không phân biệt khái niệm cận đại là “nation” (là sản phẩm của xã hội cận đại), và khái niệm xuyên lịch sử (tự nhiên tồn tại) là “folk” hoặc “ethnicity”. Điều đó đã dẫn đến nhiều bất đồng trong quá trình tranh luận về vấn đề “dân tộc” ở các nước Đông Á.
3 Trong cùng thời kỳ đó, phương pháp nghiên cứu khu vực học phát triển mạnh trong giới khoa học nghiên cứu các khu vực Á-Phi (nhất là Đông Nam Á). Khu vực học cũng áp dụng phương pháp liên ngành – đa ngành (multi – disciplinary), trong khinhấn mạnh quan điểm khu vực và quan điểm địa phương hơn quan điểm quốc gia.
4 Thậm chí đã xuất hiện quan điểm ‘Lịch sử lớn’ (Big History) nghiên cứu và giảng dạy tất cả quá trình từ sự xuất hiện của vũ trụ (Big Bang) cho đến hiện nay.
5 Sự phát triển của tổ chức họ hàng phụ hệ như tông tộc (Trung Quốc), bản quán (Triều Tiên), môn trung (Lưu Cầu), hay gia đình trực hệ thế tập nghề nghiệp là ie ở Nhật Bản đều là sản phẩm của diễn biến đó.