Thử nghiệm nuôi thương phẩm mực lá bằng con giống khai thác tự nhiên
Tại Việt Nam, nghề nuôi trồng thủy sản không ngừng tìm kiếm những đối tượng mới có giá trị kinh tế cao nhằm giảm áp lực khai thác tự nhiên. Trong đó, mực lá – loài hải sản được ưa chuộng với hương vị thơm ngon, dễ chế biến và giá bán lên tới hơn 500 nghìn đồng/kg (loại 500 g/con) – đang được nhiều địa phương quan tâm phát triển.
Tại Khánh Hòa, một số hộ nuôi lồng bè ở vùng biển phường Cam Phúc Bắc (TP. Cam Ranh) đã thử nghiệm nuôi thương phẩm mực lá bằng con giống khai thác tự nhiên. Mô hình bước đầu cho thấy ưu điểm nổi bật như thời gian nuôi ngắn, chi phí đầu tư thấp, dễ chăm sóc, giá bán cao, lợi nhuận vượt trội so với nhiều loài hải sản khác. Tuy nhiên, việc phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn giống tự nhiên khan hiếm, khó kiểm soát chất lượng, khiến mô hình chỉ tồn tại ở quy mô nhỏ lẻ, thiếu tính bền vững.
Trước thực tế đó, Sở KH&CN Khánh Hòa đã giao Trung tâm Thông tin và Ứng dụng KH&CN Khánh Hòa nghiên cứu quy trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo và thử nghiệm nuôi thương phẩm mực lá.
Trên thế giới, công nghệ sản xuất giống và nuôi mực lá đã được nghiên cứu từ lâu ở các quốc gia như Thái Lan, Mỹ, Sri Lanka hay Nhật Bản. Tuy nhiên, tại Việt Nam, đây vẫn là hướng nghiên cứu mới. Nhóm nghiên cứu đã thu tuyển mực bố mẹ từ tự nhiên bằng phương pháp bẫy lồng – một hình thức đánh bắt hạn chế tối đa tổn thương cho mực. Những cá thể khỏe mạnh, nặng 100–120 g được chọn lọc, đưa vào lồng thuần hóa trên biển trong khoảng hai tuần, để thích nghi trước khi chuyển vào bể nuôi vỗ thành thục.
Trong giai đoạn này, mực được duy trì trong điều kiện nhiệt độ, độ mặn tương đương môi trường tự nhiên và cho ăn hoàn toàn bằng thức ăn tươi (cá, tôm, cua nhỏ) để kích thích phát triển tuyến sinh dục. Quá trình thụ tinh và đẻ trứng diễn ra tự nhiên trong bể nuôi. Sau 6 ngày, trứng được thu nhẹ nhàng, vận chuyển về khu thí nghiệm, ấp trong bể xi măng có đặt rổ nhựa khoan lỗ nhỏ. Khi trứng nở, mực non được chuyển sang bể composite 500 L, có bổ sung tảo đơn bào (Nannochloropsis oculata) nhằm ổn định môi trường. Điều kiện ương được kiểm soát nghiêm ngặt như hàm lượng oxy hòa tan ≥ 5 mg/L, độ mặn 28–32‰, nhiệt độ 28–32°C, pH 8,0–8,2.
Kết quả cho thấy, mực lá dễ thành thục và sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt. Gần 300 cá thể mực bố mẹ được nuôi vỗ với tỷ lệ sống trên 70%, thu hơn 6.000 con giống kích cỡ 4–5 cm, tỷ lệ sống qua các đợt ương đạt trên 30%. Giai đoạn thử nghiệm nuôi thương phẩm từ nguồn giống nhân tạo cho sản lượng thu hoạch hơn 200 kg mực, chứng minh tính khả thi của quy trình này.
Không chỉ tạo ra đàn giống, nhóm nghiên cứu còn xây dựng trọn bộ quy trình kỹ thuật nuôi thương phẩm, khuyến cáo về quản lý môi trường, chế độ chăm sóc, phương pháp thu hoạch; đồng thời đào tạo kỹ thuật viên, tổ chức tập huấn và phổ biến kết quả cho người dân địa phương.
Trong bối cảnh nhu cầu đối với mực lá thương phẩm tăng cao, trong khi trữ lượng tự nhiên sụt giảm nhanh, việc chủ động nguồn giống nhân tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Dù giá thành con giống hiện vẫn cao hơn một số loài khác, song nhờ thời gian nuôi ngắn, hệ số chuyển đổi thức ăn (hiệu quả sử dụng thức ăn để tạo ra khối lượng tăng trưởng của đối tượng nuôi) thấp, giá bán đầu ra cao, thử nghiệm thực tế cho tỷ suất lợi nhuận hơn 40%, cao gấp đôi so với nhiều đối tượng nuôi truyền thống.
Kết quả này mở ra hướng phát triển mới cho nghề nuôi biển ở Khánh Hòa, góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao, tiến tới hình thành ngành hàng mực lá thương phẩm chủ động, bền vững và thân thiện với môi trường. Đề tài đã được Sở KH&CN Khánh Hòa nghiệm thu, đạt kết quả, sẵn sàng chuyển giao vào sản xuất.
Hải Minh