Việt Nam có tận dụng được cơ hội ?

Việt Nam đã bước vào giai đoạn phát triển hội nhập rất khác so với giai đoạn đổi mới và mở cửa trước đây. Nếu như “mở cửa” vẫn giữ lại cho chúng ta sự chủ động tương đối trong việc hoạch định chính sách và quyền lựa chọn đối tác, thị trường… thì với “hội nhập”, Việt Nam phải tuân thủ các luật chơi chặt chẽ hơn và không còn nhiều không gian cho những chủ động chính sách.


Với Hiệp định TPP hay Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (VEFTA), Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA), Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á-Âu (VEAUFTA), mức độ hội nhập của chúng ta đã tiến lên một nấc mới – không còn theo cách “tuần tự nhi tiến” thông thường. Việt Nam đã có bước nhảy vọt lên mức độ hội nhập ở đẳng cấp rất cao, thậm chí hàng đầu thế giới. Nhưng trên tất cả các tuyến hội nhập mới (kể cả với AEC), Việt Nam đều thuộc nhóm kém phát triển nhất so với các quốc gia còn lại. Thách thức hay cơ hội phát triển dành cho Việt Nam đều xuất phát từ đặc điểm này.

Cần tỉnh táo trước vận hội mới

Cơ hội từ vận hội mới là thông qua các điều khoản hiệp định về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và đầu tư, sở hữu trí tuệ,… Việt Nam có thể “bám” vào những nền kinh tế lớn, phát triển cao – TPP là nơi hội tụ chỉ của 12 quốc gia nhưng sản xuất ra gần 40% GDP toàn cầu, với những nền kinh tế phát triển nhất thế giới như Mỹ, Nhật, Canada, Australia… – để tạo ra đột phá cho nền kinh tế vươn lên nhanh. Đây là cơ hội chiến lược có giá trị thời đại mà chúng ta không thể bỏ lỡ.

Ngược lại, chúng ta cũng phải tỉnh táo để nhận ra rằng, các đối tác trong các sân chơi này đều là những quốc gia đi trước Việt Nam và có rất nhiều kinh nghiệm trong sân chơi thị trường quốc tế. Khi chúng ta tạo thuận lợi về kinh tế cho đối tác ký thỏa thuận thương mại với mình thì họ cũng thu được những lợi ích to lớn khác. Ngay cả với những thuận lợi mà họ mang lại cho đối tác thì việc hưởng thụ chúng cũng không phải là điều dễ dàng. Một bài học nằm lòng trong kinh tế thị trường là lợi ích càng lớn thì tiềm ẩn càng nhiều rủi ro, mà bản chất ở đây là chúng ta phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt hơn. Ở một xuất phát điểm như Việt Nam thì khả năng trả giá sẽ rất cao. Khi hàng rào thuế quan hạ thấp, xuống tới mức bằng “không” thì việc xuất khẩu sản phẩm hàng hóa ra các thị trường lớn có lợi nhưng ngược lại, việc nhập khẩu hàng hóa với điều kiện tương tự sẽ khiến thị trường nội địa phải chịu sóng lớn. Vấn đề mấu chốt là những đòi hỏi của thị trường phát triển cao sẽ cao hơn rất nhiều, đặc biệt là đòi hỏi về hàng rào kỹ thuật. Ngay cả với nhóm mặt hàng nhiều lợi thế của Việt Nam như nông thủy sản, để thâm nhập các thị trường lớn sẽ phải vượt qua thách thức lớn là làm sao đáp ứng được các yêu cầu khắt khe về chất lượng, màu sắc, hình dáng đến tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Nếu không nghiêm túc thực thi những điều khoản cam kết, chắc chắn Việt Nam sẽ chẳng hưởng lợi được bao nhiêu, nếu không nói là không có gì.

Bên cạnh đó, cần thấy rằng các hiệp định thương mại này đều cam kết bảo vệ lợi ích của các quốc gia tham gia. Ví dụ điều khoản về đảm bảo nguồn gốc xuất xứ hàng hóa nội khối trong chính sách ưu tiên miễn thuế nhập khẩu. Việt Nam có lợi thế về sản phẩm dệt may nhưng muốn tận dụng được ưu đãi dành cho thành viên TPP thì phải tuân thủ nguyên tắc “yarn forward”, tức là chỉ có sản phẩm may mặc được sản xuất bằng nguyên liệu nội khối ít nhất từ khâu sợi. Nếu chúng ta nhập khẩu sợi hay vải từ ngoài khối về để dệt và may rồi xuất sang các nước thành viên TPP thì sẽ không được hưởng bất kỳ ưu đãi nào nữa. Trên thực tế, nền công nghiệp của ta lại chủ yếu làm gia công và lắp ráp, nghĩa là đang lệ thuộc quá nặng vào việc nhập khẩu nguyên liệu đầu vào để sản xuất, do đó sẽ khó tránh khỏi những bất lợi khi tham gia các FTA với các quy định chặt chẽ kiểu TPP.

Chiến lược nào cho Việt Nam?

Trước những thách thức kể trên, giải pháp gốc rễ cho Việt Nam là thay đổi cấu trúc nền kinh tế, phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ để không chỉ gia tăng chất lượng, tiêu chuẩn cho hàng hóa mà còn nâng cao tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm.

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng với thế giới, Việt Nam cần phát huy nội lực và biết cách tăng thêm những giá trị mới cho nó. Chúng ta đã khai thác triệt để, hầu như cạn kiệt các loại tài nguyên thiên nhiên – quặng mỏ, đất và rừng, nhưng vẫn còn nhiều thứ tài nguyên khác, đặc biệt là lợi thế tuyệt đối của nền nông nghiệp nhiệt đới gió mùa hay tài nguyên du lịch đẳng cấp cao. Lâu nay các lợi thế tài nguyên nông nghiệp vẫn chưa được khai thác đúng mức, những đặc sắc của một nền nông nghiệp trải dài trên nhiều vĩ độ, với địa hình có núi cao, đồng bằng và bờ biển dài vẫn chưa được chú ý. Nếu phát huy được những mặt mạnh này và phát huy vai trò khoa học công nghệ, thì chúng ta sẽ có thể thay thế phương thức sản xuất nông nghiệp manh mún, tùy tiện bằng những mô hình phù hợp với điều kiện cạnh tranh quốc tế, chẳng hạn như cách thức Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai đầu tư nuôi hàng trăm nghìn con bò tập trung ở Hà Tĩnh theo mô hình “chuỗi quốc tế” hiện đại, hay các cách thức đầu tư vào nông nghiệp của Tập đoàn Vingroup, của TH Truemilk, v.v.

Về du lịch, trong quá khứ mặc dù từng xác định đây là ngành kinh tế mũi nhọn nhưng chúng ta chỉ tập trung khai thác những thế mạnh trước mắt, “ăn xổi” mà không đầu tư bài bản theo quy hoạch có tầm nhìn xa. Hiện nay, cần phải thay đổi chiến lược phát triển du lịch thông qua hợp tác quốc tế (ví dụ phối hợp với các quốc gia Đông Nam Á, hình thành những chuỗi điểm đến đẳng cấp…), và gắn với phát triển các sản phẩm nông nghiệp đặc sắc nhiệt đới gió mùa. Việc tạo được mối liên kết bền vững giữa hai ngành không chỉ đem lại lợi thế mới cho du lịch mà còn giảm bớt rủi ro cho nông nghiệp.

Hai nguyên tắc mấu chốt doanh nghiệp Việt Nam cần đáp ứng

Nguyên tắc chung đầu tiên là tìm kiếm những lợi thế – khác biệt, những ngành nghề mà Việt Nam có lợi thế tuyệt đối như sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới gió mùa, tài nguyên du lịch… Ngoài ra, bên cạnh những lợi thế tĩnh, Việt Nam còn có những lợi thế động dựa trên những ngành liên quan đến công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học trong một số sản phẩm đặc thù, đặc sắc của Việt Nam.

Thứ hai là thay đổi đẳng cấp sản phẩm, đẳng cấp cơ cấu. Cho đến nay, đẳng cấp cơ cấu kinh tế của ta vẫn rất thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên và công nghiệp gia công lắp ráp. Chúng ta phải thay đổi đẳng cấp cơ cấu nền kinh tế: không dựa vào khai thác tài nguyên mà dựa vào công nghệ nhiều hơn, không dựa vào lắp ráp mà dựa vào chế tạo, phát triển công nghiệp hỗ trợ – công nghệ cao. Việc thay đổi đẳng cấp cơ cấu sẽ làm thay đổi đẳng cấp sản phẩm, không chỉ đối với các mặt hàng công nghiệp mà cả các mặt hàng nông nghiệp. Thay vì tập trung sản xuất các mặt hàng “cao sản”, cần chú trọng phát triển các loại cây trồng vật nuôi chất lượng cao, gắn với công nghệ, tạo ra những sản phẩm có phẩm cấp cao, những đặc sản gắn liền với các địa danh Việt Nam, đồng thời vượt qua thách thức lớn nhất hiện nay là các hàng rào kỹ thuật và đòi hỏi về an toàn thực phẩm.

Cải thiện môi trường kinh doanh?

Trước những đòi hỏi của cạnh tranh quốc tế mà doanh nghiệp phải đương đầu, nhất là trong giai đoạn hội nhập đang diễn ra rất nhanh hiện nay thì tốc độ cải thiện môi trường kinh doanh của nhà nước vẫn còn quá chậm.

Nền công nghiệp Việt Nam trong lịch sử vốn chủ yếu dựa vào doanh nghiệp nhà nước nên di truyền lại cho nền kinh tế chuyển sang thị trường cái di sản “chủ đạo” độc quyền, ưu đãi, phân phối vốn kiểu xin cho, làm méo mó môi trường kinh doanh nghiêm trọng và kéo dài. Trong môi trường đó, khối doanh nghiệp tư nhân muốn tồn tại, cũng phải bám vào nhà nước, thậm chí phải trở thành “sân sau” của doanh nghiệp nhà nước, hay bám vào những tín hiệu chính sách của nhà nước về đầu tư, về trái phiếu để “kiếm chác”, lâu dần thành ra có xu hướng đầu cơ, chộp giật.

Chậm phát triển các thị trường đầu vào cơ bản, ví dụ như thị trường đất đai, thị trường năng lượng, thị trường nhân lực, thị trường vốn… đều là những thị trường đầu vào quyết định của nền kinh tế, thành những thị trường cạnh tranh tự do. Từ khi gia nhập WTO, chúng ta cam kết đẩy mạnh thị trường hóa nền kinh tế nhưng trên thực tế nhà nước vẫn can thiệp vào các thị trường này quá nhiều, làm cho chúng duy trì quá lâu tình trạng méo mó, kém hiệu quả, và khiến nhiều loại giá cả đầu vào cơ bản không phải là giá thị trường đích thực.

Trong cải cách các thủ tục về thuế, hải quan, đăng ký hồ sơ…, mặc dù trong hai năm qua, chính phủ tập trung cải cách lĩnh vực này rất nhiều và đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng có lẽ do bị phân tán nhiều việc nên việc cải cách không đạt mục tiêu ban đầu đề ra. Tiến trình này cần được thúc đẩy mạnh hơn, nhất là sau Đại hội 12 của Đảng.

Bên cạnh đó, chính phủ còn thiếu những chương trình hỗ trợ thiết thực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, như hỗ trợ tiếp cận thị trường, hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng chung, cung cấp thông tin thị trường, tiếp cận khoa học công nghệ, phát triển nhân lực…

Doanh nghiệp nhà nước chậm cải tổ?

Những năm gần đây, chính phủ thể hiện ráo riết chủ trương cải cách doanh nghiệp để tránh/xóa độc quyền, nhưng tốc độ cổ phần hóa vẫn chậm và hiệu quả chưa cao. Mấy trăm doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa nhưng phần vốn nhà nước chuyển giao cho khu vực tư nhân vẫn còn quá ít, chỉ đạt 15 – 20%. Tỷ lệ này không đủ để thay đổi cấu trúc quản trị của doanh nghiệp được cổ phần hóa, do đó, không thể cải thiện hiệu quả sử dụng vốn.

Để cải thiện hiệu quả tái cơ cấu, trước hết nhà nước phải tăng tốc cổ phần hóa với tỷ lệ thoái vốn nhà nước ở mức độ mạnh mẽ hơn nhiều so với hiện nay. Thử nghiệm bán 100% vốn nhà nước của 10 doanh nghiệp nhà nước hồi cuối năm ngoái có thể coi là một cú đột phá tích cực trong quản lý kinh tế.

Thứ hai, với các thị trường đầu vào, cần đẩy mạnh quá trình tự do hóa, ví dụ thị trường điện cạnh tranh hơn, thị trường đất đai phải dịch chuyển quyền tài sản linh hoạt hơn. Thị trường này càng linh hoạt, càng thông thoáng thì việc lưu chuyển của cải trong xã hội càng tăng lên, đồng thời bớt được rủi ro. Đất đai đem đi thế chấp nhưng không ngân hàng nào dám nhận vì đó là tài sản của nhà nước – đây chính là nguồn gốc của rủi ro trong hoạt động ngân hàng.

Thêm một vấn đề nữa là bây giờ Việt Nam đã ký kết các FTA thế hệ mới với các ràng buộc rất chặt chẽ, theo đó chính phủ không thể tiếp tục ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước và không thể thực hiện chính sách mua sắm công như trước. Các hoạt động này giờ đây phải tuân thủ quy định của các FTA, phải theo nguyên tắc thị trường.

Bài học kinh nghiệm

Bài học quan trọng nhất là tiếp tục cởi bỏ các rào cản thể chế để phục vụ doanh nghiệp tốt nhất. Đây là nhiệm vụ bao trùm và định hướng hành động cho “nhà nước kiến tạo”, mà nếu chúng ta xao lãng thì sẽ gặp nguy hiểm khi bước vào hội nhập đẳng cấp cao.

Bài học thứ hai là kiên trì quyết liệt với quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, tránh sự thỏa hiệp. Trước đây, chính vì chúng ta quá thỏa hiệp nên chưa làm được gì nhiều. Ví dụ, khi tái cơ cấu đầu tư công, chính phủ đưa ra Nghị định 1792 rất đúng đắn, nhưng khi thực hiện lại thỏa hiệp trước các tồn tại hiện hành nên cuối cùng đầu tư vẫn rất dàn trải. Tương tự như vậy, Luật Ngân sách dù đã sửa lại nhưng tinh thần xin – cho vẫn còn phổ biến. Đồng thời cần tích cực hơn nữa trong việc bán vốn nhà nước cho khu vực tư nhân nhiều hơn để thay đổi cơ cấu quản trị.

Tựu chung lại, nếu theo đúng tư duy thị trường, phân vai nhà nước và thị trường “chuẩn”, cùng với mạnh tay làm bài bản và nghiêm túc thì sẽ thành công!

Bộ KH&CN rất tích cực hỗ trợ cho các doanh nghiệp KH&CN, nhưng cần đảm bảo rõ ràng hơn khía cạnh nghĩa vụ của các doanh nghiệp được trao chứng nhận doanh nghiệp KH&CN, tránh chạy theo bệnh thành tích về số lượng. Nên có chính sách khuyến khích những trung tâm R&D đặt trong các trường đại học, thông qua việc hỗ trợ kinh phí hoặc hình thức quỹ để hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết các bài toán KH&CN của họ, đồng thời nhờ đó tạo ra một không gian khởi nghiệp gắn kết nhà trường với doanh nghiệp.

Tác giả

(Visited 1 times, 1 visits today)