HĐKH trường đại học: Vì sao vai trò mờ nhạt ?

Ở Việt Nam, Hội đồng Khoa học (HĐKH), dù ở đại học công hay tư, đều chỉ là tổ chức tư vấn, chứ không phải tổ chức có thẩm quyền cao nhất về mặt học thuật như thông lệ quốc tế. Không những thế, với cách thức hình thành và vận hành như hiện nay, nó còn biến thành tổ chức “tự tư vấn cho chính mình”.


 ĐH Văn Hiến (TP. Hồ Chí Minh) có 20 thành viên HĐKH, trong đó có bảy thành viên ngoài trường, bao gồm các cựu hiệu trưởng trường công. Tuy nhiên trường hợp như trường ĐH Văn Hiến không mấy phổ biến. Trong ảnh: Thư viện ĐH Văn hiến. Nguồn: vhu.edu.vn.

Hiện nay, HĐKH (Academic Senate, Academic Council) là một thiết chế được quy định trong tất cả các văn bản pháp lý hiện hành về tổ chức hoạt động của trường đại học, bao gồm Điều 55 Luật Giáo dục 2005; Điều 19 Luật Giáo dục đại học (GDĐH) 2012; Điều 13, Điều 21, Điều 25 của Điều lệ Trường Đại học 2014 ban hành theo Quyết định 70/QĐ-TTg ngày 10/12/2014 (gọi tắt là Điều lệ Đại học).

Khảo sát theo trình tự thời gian ban hành, cũng như theo cấp độ văn bản, có thể thấy vai trò, chức năng, nhiệm vụ của HĐKH ngày càng được quy định rõ hơn và chi tiết hơn, nhưng có một điểm nhất quán trong tất cả các văn bản pháp quy về HĐKH cho đến nay: Luật Việt Nam quy định HĐKH là một tổ chức tư vấn cho hiệu trưởng.

Cũng xét theo trình tự thời gian thì luật Việt Nam đang có khuynh hướng trao cho HĐKH nhiều thẩm quyền hơn. Đặc biệt, HĐKH của trường tư được trao thẩm quyền lớn hơn nhiều so với trường công: họ có quyền thông qua những quy định liên quan đến tuyển sinh, đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế trong quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường – tương tự như đại hội đồng cổ đông có quyền thông qua những quy định liên quan đến tài chính – trên cơ sở đó hội đồng quản trị (HĐQT) ra quyết nghị về việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung Quy chế. Đó là một bước tiến rất đáng ghi nhận trong việc coi trọng tiếng nói thẩm quyền của giới chuyên môn.

Tuy nhiên, khung pháp lý hiện hành cũng đang cản bước trong việc giúp cho tiếng nói thẩm quyền của HĐKH có hiệu lực trong thực tế. Nhận định này dựa trên hai cơ sở sau đây:

(1) Thành phần của HĐKH:

Điều 19 Luật GDĐH 2012 quy định thành phần của HĐKH bao gồm: (a) hiệu trưởng; (b) các phó hiệu trưởng phụ trách đào tạo, NCKH; (c) trưởng các đơn vị đào tạo, NCKH; (d) các nhà khoa học có uy tín đại diện cho các lĩnh vực, ngành chuyên môn.

Điều lệ Đại học nói cụ thể hơn, nhưng lại cho thấy sự có mặt của giới chuyên môn ngoài trường là không nhất thiết (Điều 13). Đây là một bước lùi về mặt hướng dẫn thực hiện, vì nó sẽ làm cho HĐKH chủ yếu trở thành tiếng nói của người trong trường, và bị hạn chế bởi năng lực của chính các thành viên trong trường cũng như vị thế độc lập của HĐKH do mâu thuẫn lợi ích.

(2) Quy trình thành lập HĐKH:

Luật Giáo dục 2005 và Luật GDĐH 2012 đều không đề cập quy trình thành lập HĐKH, ngoại trừ quy định HĐ KH&ĐT được thành lập theo quyết định của hiệu trưởng (Điều 19 Luật GDĐH).

Điều lệ Đại học nói rõ hơn là quy định cụ thể về HĐKH phải được thể hiện trong Quy chế tổ chức và hoạt động của trường (Điều 13). Điều này có nghĩa là khung pháp lý hiện nay cho phép hiệu trưởng chủ trì việc chọn nhân sự đưa vào HĐKH và ra quyết định thành lập, mở ngỏ cho khả năng hiệu trưởng sẽ thiên về chọn những người có lợi cho việc bảo vệ quyền tối hậu trong việc ra quyết định của mình, dù rằng luật cũng đã trao quyền quyết định cho hiệu trưởng trong trường hợp HĐKH có ý kiến khác (Điều 25).

Một góc nhìn so sánh

Như trên đã đề cập, dù ở trường công hay trường tư, HĐKH nói chung chỉ là tổ chức tư vấn, không phải là một đơn vị có thẩm quyền.

Chúng tôi chưa có thống kê đầy đủ, nhưng phỏng vấn sâu một số lãnh đạo cấp trường và thu thập thông tin trên website các trường cho thấy, có trường có danh sách HĐKH rất hùng hậu, bao gồm cả những người ngoài trường thuộc về chính quyền như Chủ tịch UBND, Chủ tịch UBND thành phố, Giám đốc Sở GDĐT (mặc dù các vị này đều có học vị tiến sĩ, nhưng rõ ràng là họ không còn hoạt động với tư cách nhà khoa học).

Trong khi đó, vai trò của HĐKH theo định nghĩa trong quy chế từng trường đại học ở Hoa Kỳ, Anh, Úc có thể khác nhau ít nhiều, nhưng đều có một điểm chung về chức năng: đó là tổ chức do giảng viên bầu chọn và có trách nhiệm bảo vệ các chuẩn mực học thuật của nhà trường, thông qua xây dựng và rà soát các quy định về giảng dạy, học tập, đánh giá kết quả, bao gồm tuyển sinh, tốt nghiệp, bổ nhiệm giảng viên, v.v., nói cách khác, là tổ chức có thẩm quyền cao nhất về mặt học thuật trong trường đại học1. Nghĩa là nhiệm vụ của họ thuần túy thuộc về công việc chuyên môn và đi sâu vào những lĩnh vực cụ thể. Vì thế rất ít khi chúng ta thấy viên chức chính quyền tham gia HĐKH ở các trường.

Một khác biệt rõ rệt nữa giữa HĐKH ở Việt Nam và các trường phương Tây là ở phương thức hình thành: trừ một số ít thành viên mặc định, đa số thành viên HĐKH ở các nước được bầu chọn từ các khoa/tổ bộ môn của họ. Ở Scotland, Luật Đại học quy định thành viên mặc định của Hội đồng bao gồm các trưởng khoa, trưởng phòng phục vụ đào tạo, thư viện, đại diện sinh viên, còn lại là các thành viên được bầu chọn. Ở Hoa Kỳ, thành viên HĐKH có thể bao gồm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng đào tạo, các trưởng khoa, còn lại là các thành viên được bầu chọn2.

Trong khi đó, ở Việt Nam, khung pháp lý hiện nay chỉ quy định thành phần của HĐKH mà không đề cập gì về quy trình lựa chọn, ứng cử, đề cử hay bầu cử những vị trí này. Điều lệ đại học có yêu cầu “quy định cụ thể về HĐKH của trường đại học phải được thể hiện trong quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường” (Điều 13). Tuy nhiên, việc khảo sát bản quy chế này ở một số trường cho thấy hầu hết các trường không quy định cụ thể về việc thành viên HĐKH sẽ được lựa chọn theo quy trình và nguyên tắc nào hoặc có nêu ra thì quy định Hội đồng bao gồm những thành viên đương nhiên, và thành viên do hiệu trưởng bổ nhiệm (còn dựa trên tiêu chuẩn nào để lựa chọn và bổ nhiệm thì Quy chế không đề cập) và việc bổ nhiệm/miễn nhiệm là do Chủ tịch Hội đồng đề xuất. Cho đến nay, chúng tôi chưa thấy có trường đại học Việt Nam nào quy định rằng thành viên HĐKH được bầu ra từ tổ bộ môn hay ở cấp khoa.

Ở các nước phương Tây, hiệu trưởng có thể là chủ tịch HĐKH, bởi vì hội đồng này không phải là một tổ chức tư vấn, mà là một tổ chức có quyền đưa ra quyết định trong mọi vấn đề có tính chất nguyên tắc liên quan đến học thuật, ví dụ như xây dựng chính sách giảng viên, các tiêu chuẩn học thuật, định hướng nghiên cứu. Tuy nhiên, cần lưu ý là Academic Senate, hay Academic Council không quyết định những việc cụ thể như xét duyệt đề tài hay kinh phí nghiên cứu. Công việc này là của các Quỹ tài trợ nghiên cứu hoạt động trên cơ sở bình duyệt đồng nghiệp.

Nhiệm vụ chính của HĐKH ở các trường phương Tây là thảo luận để đưa ra những quyết định có tính chất nguyên tắc trong lĩnh vực học thuật, đào tạo và nghiên cứu. Họ phải xây dựng chính sách, rà soát các quy định, quy trình do các bộ phận chuyên môn đề xuất, để bảo vệ các chuẩn mực học thuật và bảo đảm rằng những quy định quy trình này phù hợp với mục tiêu và giá trị của nhà trường. Hiệu trưởng là chủ tịch HĐKH là để bảo đảm rằng giới lãnh đạo sẽ đưa ra những quyết định về học thuật ở cấp trường trên cơ sở thảo luận và đồng thuận của giới hàn lâm trong trường.

Trong khi đó, HĐKH ở Việt Nam được định nghĩa là một tổ chức tư vấn và có thẩm quyền rất giới hạn. Đó là lý do dẫn tới vị trí mờ nhạt của HĐKH trong thực tế ở các trường hiện nay. Mặc dù Luật GDĐH quy định trong trường hợp ý kiến của HĐKH khác với ý kiến của hiệu trưởng thì vị này được quyền quyết định và báo cáo HĐT/HĐQT, nhưng trường hợp này chưa từng xảy ra ở Việt Nam, vì HĐKH hầu như không có khả năng và động lực để phản biện quan điểm của hiệu trưởng.

Khuyến nghị chính sách

Như đã phân tích trên đây, HĐKH ở Việt Nam là một tổ chức có chức năng tư vấn, nhưng thành phần của nó lại chủ yếu là người trong trường, và chủ tịch HĐKH hầu hết là hiệu trưởng, khiến nó không thể thực hiện tốt chức năng tư vấn hay phản biện. Vì vậy, về bản chất nó khác với HĐKH ở các trường phương Tây, vốn là một tổ chức có thẩm quyền quyết định trong những vấn đề chuyên môn.

Với tư cách là một tổ chức có thẩm quyền quyết định, HĐKH là một thiết chế dựa trên nền tảng của cơ chế đồng quản trị, theo đó, quyền ra quyết định trong mỗi lĩnh vực sẽ thuộc về những người có khả năng tốt nhất trong lĩnh vực ấy dựa trên cơ sở thảo luận và biểu quyết trong hội đồng, giúp tránh được sự thao túng và khả năng hạn hẹp của một cá nhân. Có thể nói, HĐKH là một trong ba chân kiềng quan trọng trong cơ chế quản trị cấp trường, bên cạnh HĐQT và Ban giám hiệu. Ba đơn vị chức năng này có trách nhiệm khác nhau, phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau, hợp tác cùng nhau, nhưng đồng thời có mức độ độc lập tương đối nhằm giám sát lẫn nhau, tạo ra thế cân bằng cho quản trị cấp trường. Trong cơ chế đó, HĐQT đóng vai trò điều phối hơn là một đơn vị ra quyết định trong tất cả mọi vấn đề (Kenneth Mortimer và Thomas McConnell, 1979). Một cơ chế như vậy có thể bao hàm được quan điểm toàn diện, phát huy được trí tuệ tập thể, giảm nhẹ những mâu thuẫn tiềm tàng, và làm cho giảng viên, nhân viên gắn bó với trường, bởi tiếng nói của họ được lắng nghe và đóng góp của họ có ý nghĩa, cũng như được ghi nhận.

Đối với trường hợp Việt Nam, khuyến nghị của chúng tôi là:

– Củng cố HĐKH như một thiết chế trong cơ chế đồng quản trị, tức là một tổ chức có thẩm quyền quyết định. Trong trường hợp này, phải xây dựng lại quy chế tuyển chọn, bổ nhiệm thành viên dựa trên những tiêu chí về năng lực chuyên môn, về uy tín, và dựa trên bầu chọn. Thành viên sẽ chủ yếu là người trong trường, và Chủ tịch Hội đồng có thể là hiệu trưởng. Điều quan trọng là, đi cùng thiết chế này là những quy định trao quyền cho HĐKH ra quyết định trong những vấn đề có tính chất nguyên tắc và chính sách về hoạt động chuyên môn.

– Trong trường hợp chưa thể áp dụng cơ chế HĐKH như một thiết chế thẩm quyền, mà vẫn duy trì tính chất tư vấn của HĐKH như hiện nay, thì các nhà khoa học có uy tín ngoài trường phải là một thành phần quan trọng, nếu không nói là chủ yếu của HĐKH. Hiệu trưởng không nên là Chủ tịch HĐKH trong trường hợp này.

Khảo sát nhanh của chúng tôi qua trang web của 27 trường đại học (trong đó có tám trường tư thục) cho thấy chỉ sáu trường có thông tin về HĐKH, trong đó có một trường tư. Có 11 trường trong sơ đồ tổ chức có chỗ cho HĐKH, trong số đó có đến 5/11 trường dù có chỗ cho HĐKH trong sơ đồ nhưng không có bất cứ thông tin nào về HĐKH. Điều này nói lên một ý nghĩa khá rõ: vai trò của HĐKH trong thực tế ở các trường hiện nay rất mờ nhạt. Mặc dù được định nghĩa là “có chức năng tư vấn cho hiệu trưởng”, có 5/7 HĐKH có chủ tịch hội đồng chính là hiệu trưởng, một trường chủ tịch là phó hiệu trưởng, và một trường tư, chủ tịch là thành viên HĐQT. Tuy thế, dường như không ai cảm thấy việc “tự mình tư vấn cho chính mình” là một điều kỳ cục.

Tư liệu tham khảo
AMERICAN ASSOCIATIONOF UNIVERSITY PROFESSORS. 1995. Statement on Government of Colleges and Universities. Washington, DC: American Association of University Professors.
ASSOCIATION OF GOVERNING BOARDS OF UNIVERSITIES AND COLLEGES. 1996. Renewing the Academic Presidency: Stronger Leadership for Tougher Times. Washington, DC: Association of Governing Boards.
BERDAHL, ROBERT O. 1991. “Shared Academic Governance and External Constraints.” In Organization and Academic Governance in Higher Education, 4th edition, ed. Marvin W. Peterson, Ellen E. Chaffee, and Theodore H. White. Needham Heights, MA: Ginn Press.
BIRNBAUM, ROBERT. 1991. How Colleges Work: The Cybernetics of Academic Organization and Leadership. San Francisco: Jossey-Bass.
DILL, DAVID D., and HELM, K. P. 1988. “Faculty Participation in Policy Making.” In Higher Education: Handbook of Theory and Research, vol. 4, ed. John C. Smart. New York: Agathon.
LEE, BARBARA. 1991. Campus Leaders and Campus Senates. In Faculty in Academic Governance: The Role of Senates and Joint Committees in Academic Decision Making, ed. Robert Birnbaum. San Francisco: Jossey-Bass.
MORTIMER, KENNETH P., and MCCONNELL, THOMAS RAYMOND. 1979. Sharing Authority Effectively. San Francisco: Jossey-Bass.
SCHUSTER, JACK H., and MILLER, LYNN H. 1989. Governing Tomorrow’s Campus: Perspectives and Agendas. New York: American Council on Education/Macmillan.
SCHUSTER, JACK H. ; SMITH, DARYL G. ; CORAK,KATHLEEN A.; and YAMADA, MYRTLE M. 1994. Strategic Governance: How to Make Big Decisions Better. Phoenix, AZ: Oryx Press.
WESTMEYER, PAUL. 1990. Principles of Governance and Administration in Higher Education. Springfield, IL: Charles Thomas Publishers.
—————
1https://en.wikipedia.org/wiki/Academic_Senate
2Birnbaum, R. (1989), “The latent organizational functions of the academic senate: why senates do not work but will not go away”, The Journal of Higher Education, Ohio State University Press, 60 (4): 423–443, doi:10.2307/1982064, JSTOR 1982064

 

 

Tác giả

(Visited 39 times, 1 visits today)