Mô hình ĐH hoa tiêu (Kỳ I): Các bảng xếp hạng xác định đẳng cấp thế giới như thế nào?
GS John Aubrey Douglass (Trung tâm Nghiên cứu GDĐH, ĐH California, Berkeley) đề xuất mô hình ĐH hoa tiêu với sứ mạng trở thành hàng đầu của quốc gia hay khu vực theo nghĩa gắn bó chặt chẽ với nhu cầu phát triển KT-XH của địa phương. Thay vì phải tìm cách đáp ứng thước đo của các bảng xếp hạng ĐH toàn cầu như ĐH đẳng cấp quốc tế, những trường này hoạt động trên nền tảng văn hóa tự cải thiện và một cơ chế đảm bảo chất lượng được chi phối bởi những động lực nội tại.
Đại học đẳng cấp quốc tế (ĐH ĐCQT) là một khuôn mẫu quen thuộc nếu không muốn nói là đã được giải thích đầy đủ. Một trường ĐH được xem là “đẳng cấp quốc tế” khi nó có thành quả nghiên cứu chiếm thứ hạng cao trên bảng xếp hạng, một văn hóa ưu tú, cơ sở hạ tầng tuyệt vời, và một thương hiệu vượt qua biên giới quốc gia. Nhưng có lẽ điều quan trọng nhất, đó phải là một trường được xếp thứ hạng cao trong một hay nhiều bảng xếp hạng ĐH toàn cầu được các tổ chức vì lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận xây dựng hàng năm. Đó là bằng chứng tối hậu cho chính phủ nhiều nước và cho phần lớn cộng đồng GDĐH. Hay liệu có phải là như thế?
Hiện tượng xếp hạng ĐH quốc tế tương đối gần đây gắn với một dải hẹp dữ liệu và điểm số đánh giá mức độ danh giá của nhà trường. Điểm chỉ số trích dẫn thiên về khoa học tự nhiên và kỹ thuật, thiên về những gì được tính đến trong các tập san có bình duyệt– (chủ yếu là các tập san ở Hoa Kỳ và châu Âu, và bằng tiếng Anh), và nghiêng về một nhóm nhỏ chọn lọc bao gồm những trường ĐH có tên tuổi lớn, những cái tên luôn được xếp hạng cao trong mọi cuộc khảo sát về danh giá, cùng với số người đạt giải Nobel hay những giải thưởng khác của các ngôi sao trong giới hàn lâm.
Không phải là những chỉ báo này không hữu ích hay không có ý nghĩa thông tin. Nhưng cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục ở các nước đã đặt quá nhiều tin tưởng vào một mô hình không thể nào đạt được hoặc không có ích gì đối với nhu cầu kinh tế và sự chuyển dịch kinh tế – xã hội ở nước họ. Họ nhắm vào một tập hợp nhỏ các trường ĐH để giành lấy vị trí trong bảng xếp hạng này hay bảng xếp hạng khác bằng cách xây dựng một cơ chế giải trình trách nhiệm đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách xử sự của lãnh đạo các trường, và rút cục là đến giới giảng viên. Cái đó cũng có chỗ tốt, khi nó khích lệ việc tái xác định văn hóa bên trong của hệ thống ĐH ở một số nước vốn đang thiếu những chính sách có hiệu quả và kinh nghiệm về kiểm soát chất lượng và trách nhiệm giải trình. Nhưng nó cũng gây ra một cuộc chơi cho lãnh đạo các trường ĐH và đang thúc đẩy các trường hành động hướng về một mô hình không rõ ràng của cuộc cạnh tranh toàn cầu, một mô hình không phải là tốt nhất cho lợi ích của quốc gia mà nó phải phục vụ.
Hình 1 – Nhóm các trường luôn đạt thứ hạng cao trên bảng xếp hạng Times Higher Education (UK based) – Kết quả xếp hạng 2013
1. Caltech Source: Times Higher Education/Thomson Reuters World University Rankings |
Trong phần tiếp theo tôi sẽ thử vận động ủng hộ cho khái niệm ĐH hoa tiêu như một lý tưởng thiên về sự thiết yếu cho xã hội – một mô hình cho các trường ĐH công và có thể với một số ĐH tư – có thể thay thế hoặc bổ sung, hoặc trở thành một sự lựa chọn khác về nhận thức, cách xử sự và mục tiêu cho chính phủ các nước và các trường ĐH trong động lực đạt đến một cương vị cao và tạo ra ảnh hưởng với xã hội. Đó là một mô hình không bỏ qua chuẩn mực quốc tế về sự ưu tú, vốn tập trung nhiều vào năng suất nghiên cứu, nhưng đặt nền tảng vững chắc trên sự phục vụ nhu cầu thực sự của quốc gia và của khu vực, với những đặc điểm và trách nhiệm cụ thể mà chúng ta phải công nhận là sẽ không thích nghi với cơ chế của các bảng xếp hạng. Thực ra, một mục đích ở đây là diễn đạt một con đường, một tiếng nói của mô hình ĐH hoa tiêu, nhằm giảm nhẹ sự nhấn mạnh quá mức vào các bảng xếp hạng và giúp mở rộng trọng tâm của trường ĐH ra xa hơn hoạt động nghiên cứu.i
Sau một thời kỳ dài chính phủ các nước và các Bộ Giáo dục cứ cố gắng xác định sứ mạng và hoạt động cho các trường ĐH với nhiều cơ chế giải trình trách nhiệm khác nhau và đòi hỏi các trường trở thành ĐH đẳng cấp quốc tế, giờ đây chúng ta cần bước vào một giai đoạn mới trong đó bản thân các trường sẽ có nhiều quyền tự chủ hơn và có khả năng tài chính để tạo ra một thứ văn hóa nội tại về tự cải thiện và quản lý dựa trên minh chứng. Khó khăn lớn đối với các trường là các nhà lãnh đạo hệ thống ĐH cần xác định rõ sứ mạng của các trường ĐH và tăng cường ý nghĩa cho vai trò của trường ĐH trong xã hội, bởi xã hội đã cho nó cuộc sống và lý do để tồn tại. Hồ sơ ĐH hoa tiêu mà chúng tôi đưa ra trong bài này có thể được xem như một khả năng xây dựng cho sự nghiệp ấy.
Có một mối tương quan trực tiếp giữa việc hình thành các bảng xếp hạng quốc tế và nỗi ám ảnh cũng như những tuyên ngôn hoa mỹ về cương vị ĐH ĐCQT. Xây dựng trên cơ sở mô hình do các bảng xếp hạng ĐH có tính chất thương mại ở Hoa Kỳ tạo ra như một thứ cẩm nang tiêu dùng cho những người chuẩn bị vào ĐH, các hệ thống xếp hạng quốc tế hiện nay dựa trên những công thức gần giống nhau xuất hiện vào khoảng năm 2004.ii Khi chính phủ các nước ngày càng nhấn mạnh vai trò của các trường ĐH, coi đó như một con đường dẫn đến phát triển kinh tế và có nhu cầu tự đánh giá về một số trường ĐH nghiên cứu hàng đầu của họ, họ đã nhanh chóng vận dụng các bảng xếp hạng như một nguồn thông tin định lượng để đánh giá vị trí các trường ĐH của mình trên thị trường toàn cầu.
Hình 2 – Nhóm các trường luôn đạt thứ hạng cao trên bảng xếp hạng- Kết quả xếp hạng 2013 của Shanghai Jiaotong Academic Ranking of World Universities 2013
1. Harvard University |
Các nhà quản lý đại học và giới hàn lâm cũng dùng thứ ngôn ngữ của ĐH ĐCQT để nhấn mạnh kết quả xếp hạng, về bản chất là làm mạnh thêm một hình mẫu vốn chỉ tập trung vào một dải hẹp, chủ yếu là năng suất nghiên cứu, trong hoạt động của trường ĐH.iii Theo tôi, không phải tất cả các bảng xếp hạng các trường ĐH đều dở, nhưng không có bảng xếp hạng nào là đặc biệt tốt– dù nó do một tổ chức kinh doanh hay một trường ĐH thực hiện, kể cả do một tổ chức chính phủ đứng ra dùng những tổ chức chuyên môn để tạo ra một bảng xếp hạng quốc gia riêng chăng nữa. Nếu bạn cho rằng phương pháp xếp hạng hiện nay đang thiếu sót trầm trọng, hoặc quá thiên lệch, hoặc có ảnh hưởng thái quá, thì câu trả lời sẽ là: hãy có thêm nhiều bảng xếp hạng hay tiêu chí xếp hạng hơn nữa!!!
Không hài lòng với kết quả xếp hạng nghèo nàn của các trường ĐH Nga, Liên bang Nga bèn tạo ra một bảng xếp hạng ĐH quốc tế của riêng mình, trong đó ĐH Quốc gia Moscow đứng hàng thứ năm, trên cả ĐH Harvard hay Cambridge. Sửng sốt trước thứ hạng thấp của các trường ĐH Pháp, và châu Âu nói chung so với Hoa Kỳ và Anh, Cộng đồng Châu Âu đã bảo trợ cho những nỗ lực nhằm giúp cho ciệc xếp hạng “khách quan hơn và thiên về các trường ĐH Châu Âu hơn” (Liệu có thật trùng hợp khi bảng xếp hạng của THE thường xếp hạng các trường ĐH Anh cao hơn so với kết quả của các bảng xếp hạng khác?).iv
Sự công nhận rộng rãi tính chất thiên vị của các bảng xếp hạng quốc tế đã dẫn đến việc tìm kiếm những mô hình khác. Universitas 21 tìm cách xếp hạng chất lượng hoạt động chung của cả hệ thống GDĐH của một quốc gia thay vì xếp hạng từng trường. Nỗ lực này không phải là nhằm tìm kiếm một hệ thống GDĐH tốt nhất, mà là nhằm bổ sung cho hiểu biết của chúng ta, rằng bối cảnh quốc gia là rất quan trọng, trong đó có mức độ đầu tư cho GDĐH so với nước khác, và số lượng công bố quốc tế của một nước phải được xem xét trong tương quan với dân số.v
Một cách tiếp cận khác với vấn đề xếp hạng là cách làm mà Thomson Reuteur đang theo đuổi. Dự án Hồ sơ Các Trường ĐH toàn cầu của họ dự định tạo ra hồ sơ của các trường bằng cách dùng những yếu tố nêu trong sứ mạng của nhà trường như một cái chuẩn để đo kết quả hoạt động nhằm cung cấp thông tin cho nhà nước và cho khách hàng của các trường. Dự án bao gồm kết quả của Khảo sát Uy tín Học thuật Hàng năm do Thomson Reuteur thực hiện, dữ liệu do các trường cung cấp, và dữ liệu trắc lượng thư mục do Web of Science cung cấp.vi
Tuy thế bảng xếp hạng ĐH quốc tế hàng năm do THE và ARWU đưa ra rõ ràng là có thế mạnh tiếp thị trong việc ảnh hưởng lên cách xử sự của các Bộ Giáo dục và các trường ĐH. Các bảng xếp hạng ĐH không quá phức tạp và tinh tế, tạo ra một công cụ giải trình trách nhiệm khó mà có thể thay thế được.
Hình 3 – Địa điểm của Tri thức Hàn lâm: Các tập san phân bố theo quốc gia và chỉ số tác động
Có một số trở ngại khác trong các bảng xếp hạng hiện nay cũng đáng được thảo luận. Bên cạnh những phương pháp đáng ngờ, các bảng xếp hạng toàn cầu còn tạo ra những mục đích không thể nào đạt được đối với phần lớn các trường đang có tham vọng ấy. Khoảng 10-25 trường ĐH hàng đầu được công nhận hầu như trong tất cả các bảng xếp hạng, và danh sách này rất ít thay đổi trong mấy thập kỷ qua, cũng có rất ít khả năng sẽ thay đổi nhiều trong tương lai. Nó là một nhóm rất nhất quán (xem Hình 1 và 2) trong các bảng xếp hạng được biết đến nhiều nhất.vii Mục đích của tôi ở đây không phải là sa đà vào thảo luận về sự định kiến, thiên vị hay thiếu sót của các bảng xếp hạng, nhưng sự thống trị của Hoa Kỳ và Anh trong các tập san khoa học thì rất đáng lưu ý (xem Hình 3).viii Mức độ tập trung của các tập san khoa học, chỉ số trích dẫn là sự phản ánh thế mạnh có lịch sử dài lâu của các trường ĐH nghiên cứu, và sự thống trị của tiếng Anh như là ngôn ngữ giao tiếp của khoa học có thể sẽ thay đổi qua thời gian. Nhưng rõ ràng là nó mang lại lợi thế cho các trường ĐH Anglo trong cuộc chơi xếp hạng và giữ ổn định vị trí đó trong tương lai gần, và cũng có thể trong một thời gian rất dài nữa.
Ngầm định rằng một trường ĐH ĐCQT là một trường được xếp hạng trong số 50 hay thậm chí 100 trường ĐH hàng đầu thế giới trong một số bảng xếp hạng ĐH toàn cầu được công nhận, chỉ là một trò chơi có tổng bằng không, mà người này được thì người kia phải mất, cũng tương tự như đánh giá các trường theo mô hình quy đổi phân bố normal kiểu quả chuông. Tuy thế chính phủ nhiều nước và nhiều trường vẫn cố đạt đến cương vị đẳng cấp quốc tế với ngầm định rằng các bảng xếp hạng hiện nay sẽ kịp thời giải mã tầm quan trọng của việc đó.
Chính phủ các nước châu Âu phàn nàn rằng có quá ít trường ĐH Châu Âu trong top 50, và nhiều nước đang tiêu tốn khá nhiều tiền vào việc này. Họ cũng có cảm giác về tiềm năng thất bại của những nỗ lực ấy, cái mà Marijk van der Wende gọi là nghịch lý châu Âu: “Lẽ nào Châu Âu có tri thức và năng lực nghiên cứu cần thiết, nhưng lại thất bại trong việc đưa những thứ ấy thành đổi mới sáng tạo, tăng cường năng suất và tăng trưởng kinh tế?ix Để khuyến khích các trường gắn bó hơn với nền kinh tế và cải thiện vị trí xếp hạng, Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Khoa học Đức đã phát động một cuộc thi toàn quốc được công bố rộng rãi nhằm xác định 10 trường trong tổng số 104 trường ĐH của Đức có tiềm năng trở thành những trường tinh hoa,– Chương trình Xuất sắc, với ngân sách ban đầu là 1,9 tỉ EUR.x Giúp vào cơn điên rồ xếp hạng, Trung Quốc lên kế hoạch cho 20 trường hàng đầu đạt đến năng suất và uy tín của MIT. Ở Châu Phi, Nigeria hy vọng sẽ có 20 trường ĐCQT trước năm 2020xi; Sri Lanka muốn có ít nhất một trường ĐH ĐCQT. Bộ Giáo dục Nhật có mục tiêu đạt được 30 trường ĐCQT không kể University of Tokyo và có năm trường trong top 30 của bảng xếp hạng ĐH toàn cầu, ít nhất một trường vào top 10.xii
Năm 2013, với một kỳ vọng ít nhiều khiêm tốn, chính phủ Nga thông báo một kế hoạch có ít nhất năm trường trong số các ĐH Quốc gia Nga trong top 100 ĐH ĐCQT trước năm 2020. Họ đã chỉ định cụ thể trường nào, ngoài ĐH Quốc gia Moscov, sẽ phải đạt mục tiêu này, và cũng như nước Đức, họ cung cấp những khoản bao cấp tài chính đặc biệt cho những trường ấy: Tomsk Polytechnic University, the Higher School of Economics – Moscow, the Engineering Physics Institute, the Moscow Institute of Steel and Alloys and the National Research University of Information Technologies, Mechanics and Optics.xiii
Tuy nhiên, tham vọng không thể đi nhanh hơn thực tế nếu như các bảng xếp hạng đã được định hình theo mô hình quy đổi phân bố normal kiểu quả chuông trở thành chuẩn mực. Khi cuộc cạnh tranh giành thứ hạng nóng lên, các trường ở một số vùng trên thế giới không chỉ chơi trò xảo thuật với việc xếp hạng (chẳng hạn như tuyển dụng tạm thời các giáo sư chủ chốt đúng vào thời điểm thu thập dữ liệu xếp hạng, một thực tế đã được biết ở Anh), mà còn điều khiển dữ liệu, hay tìm kiếm những sinh viên quốc tế có điểm SAT cao (như đã thấy ở Hoa Kỳ). Có một số bằng chứng cho thấy báo cáo về tỉ lệ giảng viên/sinh viên của các trường ĐH Hoa Kỳ ngày càng không đáng tin cậy– trong khi nó chính là một yếu tố chủ yếu trong tiêu chí xếp hạng của bảng xếp hạng ĐH do US News và World Report thực hiện. Cũng có suy đoán rằng một số tổ chức xếp hạng đã ăn tiền để giúp một số trường ĐH trườn lên thứ hạng cao hơn chút ít.
Cấu tạo khá giống nhau của các bảng xếp hạng ĐH quốc gia và quốc tế đã dẫn đến một câu hỏi, và hệ quả của câu hỏi ấy là một lời khuyên: làm thế nào để đạt được địa vị ĐCQT? Có lẽ không có tổ chức nào gắn với việc ủng hộ tìm ra một con đường thích hợp hơn là Ngân hàng Thế giới,xiv dù rằng một công nghiệp tư vấn và học giả chuyên về đề tài ĐH ĐCQT đã hình thành, thậm chí có cả hội thảo hàng năm về đề tài làm thế nào đạt đến địa vị ĐCQT.xv Vậy cái gì đã định nghĩa nên một trường ĐH ĐCQT? Theo Ngân hàng Thế giới, và nhiều người khác, có ba đặc điểm chung nhất: tập trung cao độ nhân tài (giảng viên và sinh viên); nguồn lực dồi dào; và cơ cấu quản trị thuận lợi với một mức độ tự chủ cao.xvi
Thực ra, những thứ ấy đều rất quan trọng, nhưng tự bản thân nó thì không đủ.xvii Tuy có ảnh hưởng mạnh mẽ lên việc phân bổ kinh phí của nhà nước và những sáng kiến “ưu tú”, trong những thiết chế kiểm định chất lượng quốc gia mới đây và những đòi hỏi giải trình trách nhiệm khác nhau, cũng như trong thái độ xử sự của các trường, đang có một sự công nhận ngày càng mạnh mẽ, rằng hình mẫu về ĐH ĐCQT quả thật là không đầy đủ. Nó vẫn là một mô hình bị chi phối bởi một số thành quả được ưa thích (nhìn chung, đó là chỉ số trích dẫn thiên về khoa học tự nhiên và kỹ thuật, thu nhập từ hoạt động nghiên cứu, giải Nobel hay các giải thưởng nghiên cứu được công nhận trên phạm vi quốc tế, khảo sát về uy tín của các trường) và những ý kiến thay đổi thất thường về việc bằng cách nào đạt được những thành tích đó. (xem Phụ lục 1 về những gì một trường cần có để nổi lên như một ĐH ĐCQT).
Ngay cả trong những đề xướng ban đầu về mô hình ĐH ĐCQT người ta cũng công nhận những thiếu sót của nó và lo lắng về những ảnh hưởng không mong đợi của nó.xviii Trong một phân tích trước đây vào năm 2006 về phong trào xây dựng trường ĐH ĐCQT, mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị thời sự, Henry M. Levin và đồng tác giả đã lưu ý một mối quan ngại: “Bản chất chủ quan của cương vị ĐCQT có nghĩa là các trường sẽ cố đưa trường mình theo hướng được đánh giá cao về danh tiếng, và sẽ nhấn mạnh những gì có thể nhìn thấy được. Về mặt đó, hoạt động nghiên cứu, ấn phẩm khoa học, chỉ số trích dẫn, giải thưởng của giảng viên rõ ràng là đập vào mắt và có thể đo lường được, trong lúc chất lượng của quá trình giáo dục thì không”. Gần đây hơn, hai tác giả Philip Altbach và Jamil Salmi, trong khi đề xuất “những con đường khác nhau” nhằm đạt đến cương vị ĐH ĐCQT và lưu ý thái độ quá hăng hái của các nước cũng như tiêu điểm quá hẹp của các bảng xếp hạng, cũng đã khẳng định rằng những trường như thế cần phải ít nhiều gắn với nhu cầu của địa phương và của quốc gia –dù vậy ý nghĩa này vẫn còn khá mơ hồ.xix
Bộ Giáo dục của các nước nên đổ tiền của vào một số chương trình đặc biệt với dự định đem lại năng suất nghiên cứu cao hơn và chỉ số trích dẫn nhiều hơn có lẽ là ý tưởng dẫn đầu các kết luận trong những công trình nghiên cứu về việc bằng cách nào các trường có thể đạt được cương vị ĐCQT: có vẻ như là phần lớn các nước chưa có được một trường ĐH được xếp hạng cao sẽ tìm thấy con đường nhanh nhất để có nó bằng cách khởi sự một trường mới từ đầu thay vì định dạng lại và tài trợ cho những trường hiện đang tồn tại.xx
Mặc cho những ý kiến phàn nàn hay những lời cảnh báo, thực tế vẫn là bảng xếp hạng và những thiết chế giải trình trách nhiệm kiểu ấy vẫn đang tồn tại dưới hình thức này hay hình thức khác. Nhưng vẫn có không gian cho những ý tưởng cách tân hơn về việc một trường ĐH hàng đầu có thể hoặc nên là như thế nào, thực chất là một sự khao khát về một lựa chọn khả dĩ khác, hay là một mô hình nhận thức được điều chỉnh lại ít nhiều.
Kỳ II: Cội nguồn của ý tưởng về ĐH hoa tiêu
Người dịch: Phạm Thị Ly
Viện Đào tạo Quốc tế, Đại học Quốc gia TPHCM
—
i Với sự phê phán tương tự đối với hệ thống xếp hạng và mô hình ĐH ĐCQT, Simon Marginson và Ma Wanhua đã đưa ra ý tưởng về một khái niệm có tham chiếu các tiêu chuẩn của “ĐH nghiên cứu toàn cầu” (Ma, 2008; Marginson, 2008), trong đó các yếu tố vật chất làm cột trụ cho hoạt động của nhà trường là những thứ có thể quan sát và đo lường được. Hơn nữa, không có giới hạn về số trường có thể đạt được những phẩm chất này, vì cái nhãn “ĐH nghiên cứu toàn cầu” không bị hạn chế trong 50 hay 100 trường hàng đầu. Xem Marginson, S. (2008). “Ý tưởng về một trường ĐH cho kỷ nguyên toàn cầu”, báo cáo tại Hội thảo “Định vị Trường ĐH trong thế giới Toàn cầu hóa: Thay đổi Cách Quản trị và Chiến lược ở Châu Á” do Centre of Asian Studies, The University of Hong Kong; Central Policy Unit, HKSAR Government; and The Hong Kong Institute of Education, tổ chức ngày 10-11 December, 2008 tại The University of Hong Kong; Ma, W. (2008). “The University of California at Berkeley: Một trường ĐH nghiên cứu toàn cầu đang nổi hình thành”, Higher Education Policy, 21(1), 65–81. Tôi thấy việc xem xét lại khái niệm ĐH ĐCQT ở đây có giá trị. Tuy nhiên quan niệm này vẫn tiếp tục nhấn mạnh hoạt động nghiên cứu như là cái mà một trường ĐH hàng đầu nên là; trong khi ĐH hoa tiêu là một quan điểm rộng hơn về một lý tưởng cho sứ mạng và vai trò của nhà trường trong xã hội.
ii Ở Hoa Kỳ, những nỗ lực học thuật nhằm xếp hạng chất lượng các trường hay các chương trình đã có lịch sử từ lâu. Những bảng xếp hạng mang tính thương mại mới xuất hiện từ năm 1985. Năm đó, U.S. News & World Report công bố báo cáo đầu tiên vể những trường ĐH tốt nhất Hoa Kỳ – một bảng xếp hạng được dẫn chiếu nhiều nhất ở Mỹ — như một hình thức tạo ra nguồn tạo ra thu nhập mới. Từ năm 2003, Shanghai Jiao Tong University tạo ra bảng xếp hạng Academic Ranking of World Universities, phân tích các trường hàng đầu thế giới về chất lượng của giảng viên (40%), sản phẩm nghiên cứu (40%), chất lượng giáo dục (10%) và hoạt động so với quy mô (10%).[14] Bảng xếp hạng của nó hầu như chỉ bao gồm các đại học nghiên cứu, chủ yếu là trong khoa học thực nghiệm. Thời báo Times Higher Education công bố bảng xếp hạng ĐH thế giời hàng năm của họ Times Higher Education–QS World University Rankings lần đầu tháng 11-2004 Tháng 10- 2009 Times Higher Education tách ra với QS (QS sau này cùng với các đối tác tiếp tục thực hiện xếp hạng), rồi sau đó ký hợp đồng với Thomson Reuters để cung cấp dữ liệu thay vì xếp hạng.
iii Francisco O. Ramirez và Dijana Tiplic đã thực hiện một nghiên cứu phân tích về việc tiêu điểm ĐHĐCQT đã lớn lên như thế nào qua thời gian trong các tập san về GDĐH, với một bước nhảy vọt từ năm 2006. Francisco O. Ramirez và Dijana Tiplic (2013). In Pursuit of Excellence? Discursive Patterns in European Higher Education Research,” Higher Education, published on-line 16 November: http://link.springer.com/article/10.1007/s10734-013-9681-1
iv Được biết đến dưới tên gọi “ Xếp hạng ĐH đa chiều” hay U-Multirank, dự định sẽ mang lại một cẩm nang hướng dẫn tiêu dùng cho người học, dự án này dựa trên sự hỗ trợ của Ủy ban Truyền thông về hiện đại hóa GDĐH Châu Âu (COM (2011) 567 final) [1] (accompanied by Staff Working Document (SEC (2011) 1063 final), p. 5-6) and is implemented by a consortium of research organisations – CHERPA Network (Consortium for Higher Education and Research Performance Assessment) và được Ủy ban Châu Âu tài trợ. Nghiên cứu “Thiết kế và Thử nghiệm Tính Khả thi của Xếp hạng Đại học Đa chiều” kế thúc tháng 6-2011 đã chứng tỏ tính khả thi của dự án này.
v Universitas21 và Melbourne Institute of Applied Economics and Social Research, U21 Ranking of National Higher Education Systems 2013, University of Melbourne, May 2013: http://www.universitas21.com/article/projects/details/152/u21-ranking-of-national-higher-education-systems
vi “Vì thế giới ngày càng phẳng và trở nên chuyên sâu, cơ sở dữ liệu về hồ sơ các trường viện, các cá nhân, các ngành cần phải mở rộng về quy mô, sâu hơn về nội dung , và ngày càng linh hoạt”, website của Dự án Thomson Reuters tuyên bố. Về mặt nào đó điều này phản ánh một nỗ lực tương tự thoát ra khỏi lối xếp hạng các trường theo kiểu tính toán và tiến tới xếp hạng các trường theo từng chuyên ngành và những hình thức phân tích với các đơn vị của nhà trường. See http://ip-science.thomsonreuters.com/globalprofilesproject/
vii The Times Higher Education World Rankings tuyên bố rằng họ là bảng xếp hạng ĐH toàn cầu duy nhất đã đánh giá các trường ĐH ĐCQT qua thất cả các sứ mạng cốt lõi của các trường: giảng dạy, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và tính chất quốc tế hóa. Bảng xếp hạng này dùng 13 chỉ báo được xem xét thận trọng để mang lại kết quả so sánh toàn diện và cân bằng nhất, một bảng xếp hạng đã giành được lòng tin của sinh viên, giới hàn lâm, giới quản lý ĐH, cha mẹ sinh viên và chính phủ.
viii Sản phẩm của tri thức khoa học và các ấn phẩm công bố khoa học có một bản đồ địa lý rất phân biệt. Bản đồ này dùng dữ liệu trích xuất từ Web of Knowledge Journal Citation Reports (JCR) từ 2009, cho phép chúng ta đo lường địa điểm và chỉ số tác động của mỗi tập san. JCR Science Edition chứ tư liệu của trên 7,300 tập san về khoa học và công nghệ. JCR Social Sciences chứa tư liệu của 2,200 tập san trong khoa học xã hội. Tư liệu của mỗi tập san trong số 9,500 tập san về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội đã được tải về để phân tích vị trí địa lý của tập san. Một biểu đồ diện tích được dùng cho mỗi nướcm, đại diện cho số lượng tập san được xuất bản trong nước đó. Độ đậm nhạt của mỗi nước phản ánh chỉ số tác động trung bình (một chỉ số phản ánh mức độ được trích dẫn ít hay nhiều của các tập san trong nước đó.
ix Xem Wende, M. C. van der. (2009). European Responses to Global Competitiveness in Higher Education. Research and Occasional Paper Series, No.7, 2009. Berkeley: Center for Studies in higher Education, University of California.
x Germany’s Excellence Program, see: http://www.germaninnovation.org/research-and-innovation/higher-education-in-germany/excellence-initiative
xi Ibikunle H. Tijani, “Developing World Class Universities in Nigeria: Challenges, Prospects and Implications,” paper delivered at the 2nd FUNAI Leadership Development Seminar, Federal University Ndufu-Alike Ikwo, Ebonyi State, Nagieria, June 5, 2013; “Guidelines for raising Nigerian universities to world class status,” Report submitted to the National Universities Commission (NUC) and the Association of Vice Chancellors of Nigerian Universities (AVCNU), September 27-29, 2010
xii Jannuzi, Charles (2008). “Japan Aims for ‘World Class’ Universities,” Japan Higher Education Outline, Feb 5, 2008: http://japanheo.blogspot.jp/2008/02/japan-aims-for-world-class-universities.html; Kenglun Ngok & Weiging Guo, The Quest for World Class Universities in China: critical reflections, Policy Futures in Education, Vol 6, No 5, 2008.
xiii Eugene Vorotnikov, “Government approves universities for world-class bid,” University World News, September 11, 2013 Issue No. 287: http://www.universityworldnews.com/article.php?story=20130911144451887;
Smolentseva, Anna. 2010. ―In Search for World-Class Universities: The Case of Russia.‖ International Higher Education 58: 20–22.
xiv Trong các ấn phẩm thực hiện với sự tài trợ của Ngân hàng thế giới, có ột “hướng dẫn” xây dựng một ĐH nghiênc ứu từ số không. Xem Philip G. Altbach và Jamil Salmi, The Road to Academic Excellence: The Making of World-Class Research Universities, Directions in Development Series (Đã được dịch ra tiếng Việt. Xem bản tin Thông tin Quốc tế về GDĐH IEI số 1-2012)
xv Tổ chức ở Shanghai và do Hệ thống xếp hạng của ĐH Thượng Hải hỗ trợ, Hội thảo về ĐGHĐCQT lần thứ năm đã được tổ chức từ 3-6-2013. Xem: http://www.shanghairanking.com/wcu/cp.html
xvi Jamil Salmi, The Challenge of Establishing World-Class Universities, Directions in Development, World Bank: Washington D.C., 2009; Deem, R., K. H. Mok, and L. Lucas. 2008. Transforming Higher Education in Whose Image? Exploring the Concept of the ‘World-Class’ University in Europe and Asia. Higher Education Policy 21 (1): 83–97.
xvii Trong một bài báo năm 2006 thử định nghĩa thế nào là ĐH ĐCQT, Henry M. Levin, Dong Wook Jeong và Dongshu Ou ở Teachers College, Columbia University, lưu ý tính chất chủ quan của danh hiệu này, và lưu ý rằng “Mặc dù hoạt động giảng dạy, phục vụ xã hội và nghiên cứu đều được nhấn mạnh trong các tuyên ngôn về những gì làm nên sự vĩ đại của một trường ĐH, việc cho điểm đánh giá uy tín dường như đã bị giới hạn chủ yếu trong khía cạnh nghiên cứu trong các phân tích thống kê của chúng ta”. Henry M. Levin, Dong Wook Jeong and Dongshu Ou, “What is a World Class University?”, Paper presented at the Conference on Comparative & International Education Society, Honolulu, Hawaii, March 16, 2006: http://www.tc.columbia.edu/centers/coce/pdf_files/c12.pdf . (Đã được dịch ra tiếng Việt. Xem Bản tin Tư liệu Tham khảo của Trung tâm Nghiên cứu Giao lưu VH GDQT số 1-2009. Có thể download tại đây: http://lypham.net/joomla/index.php?option=com_docman&task=cat_view&gid=20
xviii Ibid., Jamil Salmi, một chuyên gia về mô hình ĐH ĐCQT đã cảnh báo “Cần tránh làm to chuyện quá mức về tầm quan trọng của ĐH ĐCQT và làm méo mó cơ cấu phân bổ ngân sách trong hệ thống GDĐH quốc gia. Ngay cả trong nền kinh tế tri thức toàn cầu hóa, khi tất cả các nước công nghiệp hóa và đang phát triển đều tìm cách tăng phần mình trong chiếc bánh kinh tế, thì sự cường điệu chung quanh ĐH ĐCQT cũng vượt xa nhu cầu và năng lực của một số nước để họ có thể được hưởng lợi từ những cơ hội nghiên cứu và đào tạo cao cấp ấy, ít ra là trong ngắn hạn. Thực ra, ở một số nước, khi các trường ĐH hiện đang tồn tại có thể tạo ra những người tốt nghiệp với chất lượng tốt hơn so với những cơ hội việc làm có thể mở ra cho họ, thì các trường ĐH ưu tú có thể sẽ chỉ làm trầm trọng thêm nạn chảy máu chất xám vốn có”.
xix Có nhiều ví dụ về những cuộc thảo luận nghiêm túc giữa các trường ĐH lớn về chủ đề làm thế nào có thể hấp thu ý nghĩa của xếp hạng cũng như tên gọi ĐH ĐCQT. The University of Cape Town, Danie Visser và Marilet Sienaert đã nêu tóm tắt về việc họ đã đi đến một cách tiếp cận “mềm” như thế nào. Ý thức rõ những ý kiến và đáp ứng rất khác nhau của giảng viên đối với vấn đề xếp hạng ĐH, nhà trường đã giúp giới giảng viên hiểu về các hệ thống xếp hạng ĐH toàn cầu đang nổi lên, kể cả mục tiêu và triết lý đàng sau việc xếp hạng, cũng như những định kiến thiên lệch, điểm mạnh và điểm yếu của nó, và tác động của bảng xếp hạng lên các nhà tài trợ và những người làm chính sách. Thông qua thực tiễn này, nhà trường quyết định bốn chiến lược và nguyên tắc giúp nhà trường đạt đến sự ưu tú trong thế giới cạnh tranh và toàn cầu hóa, đó là nhấn mạnh vị trí đặc biệt của nhà trường trong khu vực Châu Phi; tăng cường hợp tác quốc tế; tăng cường sự hiện diện về nghiên cứu và tăng cường hỗ trợ cho các nhà nghiên cứu ở mọi cấp độ.” Xem Danie Visser and Marilet Sienaert, “Rational and Constructive Use of Rankings: A Challenge for Universities in the Global South,” Qi Wang, Ying Cheng and Nian Cai Liu (Ed.) Building World-Class Universities: Difference Approaches to a Shared Goal, Sense Publishers, 2012.
xx Philip G. Altbach và Jamil Salmi (2011), The Road to Academic Excellence: The Making of World-Class Research Universities, Directions in Development Series. The World Bank.