Cúm gia cầm: cần bình tĩnh và lí trí
Bẵng đi một thời gian sau những hoang mang về bệnh SARS, thế giới lại hoảng hốt trước nguy cơ dịch cúm gia cầm (tiếng Anh gọi chung là bird flu). Cường độ của sự hoảng hốt đang lên cao khi mới đây người ta phát hiện gà ở một số nước bên Âu Châu cũng bị nhiễm vi-rút H5N1. Nhưng có lẽ sự hoảng hốt đó thiếu cơ sở khoa học. Có thể nói rằng vấn đề lớn nhất của công chúng hiện nay không phải là cúm gia cầm, mà là hoảng sợ cúm gia cầm.
Kiểm tra virut một con vịt trời ở Pháp -AFP |
Giải mã cúm gia cầm và vi-rút
Vi-rút cũng là những sinh vật đã song hành cùng con người khá lâu trong lịch sử tiến hóa. Dựa vào tác hại, giới khoa học phân loại ba nhóm vi-rút cúm, gọi tắt là nhóm A, B và C. Các vi-rút thuộc nhóm C thường tìm thấy trong con người nhưng chúng không có tác hại lớn, ngoại trừ gây ra vài rối loạn cấp tính đường hô hấp, khả năng gây tử vong cho bệnh nhân cực thấp. Các vi-rút trong nhóm B (cũng hay thấy trong con người) có thể nguy hiểm hơn, vì thỉnh thoảng chúng có thể gây nên một nạn dịch, và nạn nhân thường là trẻ em. Các vi-rút thuộc nhóm A là đáng gờm hơn hết, bởi vì chúng có thể đột biến một cách nhanh chóng thành những vi-rút có khả năng kháng nguyên (antigenic), có nghĩa là chúng có thể tiến hóa thành những vi-rút mà hệ thống miễn nhiễm của con người không nhận ra được (và không có khả năng phòng chống).
Vi-rút đang lan tràn hiện nay là H5N1 thuộc nhóm vi-rút A. Sở dĩ có mẫu tự H và N là vì cấu trúc sinh học của vi-rút gồm có hai nhóm protein: hemagglutinin (H) và neuraminidase (N). H có 15 chi với mã danh H1 đến H15. N có 9 chi với mã danh N1 đến N9. Vi-rút H5N1 là một trong tất cả 45 vi-rút thuộc nhóm này. Vi-rút H5N1 có thể biến hóa thành vi-rút khác cùng nhóm, nhưng khả năng biến hóa đó chúng ta vẫn chưa biết ra sao.
Vi-rút thuộc chi H1, H2 và H3 đã được biết có lưu truyền trong con người từ hơn 100 năm qua, và do đó chúng ta có thuốc phòng chống chúng. Nhưng vi-rút H5 thì vẫn còn là một “kẻ thù” xa lạ đối với hệ thống miễn nhiễm của con người, và hiện nay chúng ta chưa có thuốc phòng chống cụ thể. Những thuốc như tamiflu, dù được quảng bá rộng rãi trong thời gian qua, nhưng trong thực tế chỉ chủ yếu phòng chống cúm nhóm H2 và H3, và nghiên cứu lâm sàng cho thấy hiệu quả của thuốc này – nói một cách thành thật – cũng chẳng cao.
Tiêu hủy gà bậnh tại một trang trại ở Buinaksky-Caucasus-Nga. Anh: Reuters
|
Ba điều kiện cho một đại dịch
Dư luận thế giới hoang mang về cúm gia cầm hiện nay, vì có người tiên đoán rằng một đại dịch sẽ xảy ra nay mai. Một số nhà khoa học (chuyên nghiệp và tài tử) lí giải rằng lịch sử cận đại cho thấy cứ trung bình 30 năm thì có một nạn cúm lớn trên thế giới (lần sau cùng một đại dịch xảy ra là vào năm 1968), và từ đó đến nay đã hơn 30 năm rồi mà một đại dịch vẫn chưa xảy ra. Có người, còn khẳng định rằng một đại dịch sẽ xảy ra nay mai, vấn đề là khi nào mà thôi. Nhưng cách lí giải này xem ra có vẻ… dị đoan. Một đại dịch có khả năng xảy ra phải có nguyên nhân và điều kiện, chứ không phải cứ theo một chu kì huyền bí nào đó.
Có ba điều kiện để một vi-rút có thể gây ra một đại dịch toàn cầu: một là vi-rút đó phải có khả năng đột biến thành một vi-rút mới; hai là vi-rút phải có khả năng tái tạo hay đột biến một khi xâm nhập vào cơ thể con người; và ba là vi-rút phải có khả năng truyền nhiễm giữa con người.
Điều kiện thứ nhất: Vi-rút này đã gây bệnh cho hàng triệu chim và gia cầm trong vùng Đông Nam Á. Thoạt đầu H5N1 gây ra vài triệu chứng không mấy nghiêm trọng cho gia cầm, nhưng sau đó vi-rút tiến hóa nhanh chóng và trở nên nguy hiểm hơn và tỉ lệ tử vong trong gà bị nhiễm lên đến 100%! Cũng có khả năng vi-rút H5N1 lây truyền từ gia cầm sang người, nhất là những người trực tiếp tiếp xúc với gia cầm. Đại đa số nạn nhân chết vì bị nhiễm (hay nghi ngờ bị nhiễm) vi-rút H5N1 thường là những nông dân trong các nông trại hay thường xuyên đụng chạm với gà vịt hàng ngày. Cũng cần nhắc lại rằng nạn dịch năm 1918 ở Tây Ban Nha cho thấy vi-rút H1N1 cũng bắt đầu nhiễm gia cầm và từ đó lây truyền sang con người.
Điều kiện thứ hai: Hiện nay chúng ta đã có bằng chứng sơ khởi cho thấy vi-rút H5N1 gây tử vong cho con người. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, cho đến nay, đã có 117 trường hợp bệnh nhân bị nhiễm vi-rút H5N1, và trong số này 60 người đã không may chết vì tiếp xúc (hay tình nghi có tiếp xúc) với vi-rút. Tuy số liệu trên cho thấy nguy cơ tử vong từ vi-rút H5N1 khá cao, nhưng trong thực tế nguy cơ có lẽ thấp hơn nhiều, bởi vì có thể có nhiều trường hợp tử vong vì vi khuẩn và thiếu thuốc kháng sinh (chứ không phải do H5N1 trực tiếp gây ra), và cũng không thể loại trừ khả năng có nhiều trường hợp bị nhiễm nhẹ nhưng không được báo cáo.
Điều kiện thứ ba: Cho đến nay chúng ta vẫn chưa có bằng chứng gì cho thấy vi-rút H5N1 truyền từ người sang người. Các chuyên gia bệnh truyền nhiễm vẫn chưa thể kết luận gì về nguy cơ truyền nhiễm giữa con người có xảy ra hay không, và nếu xảy ra thì tần suất sẽ là bao nhiêu. Cho đến nay (tháng 2 năm 2006), sau khi thẩm định tình hình mới nhất ở Thổ Nhĩ Kì, ngay cả WHO cũng tuyên bố rằng “Sau khi nghiên cứu sự bộc phát ở các nước trên thế giới, các chuyên gia chưa ghi nhận một bằng chứng nào cho thấy vi-rút có khả năng truyền từ người sang người”.
Nói tóm lại, trong 3 điều kiện cho một nạn dịch lớn, vi-rút H5N1 đã hội đủ 1,5 điều kiện. Do đó, các chuyên gia hàng đầu về bệnh truyền nhiễm nhấn mạnh rằng một nạn dịch H5N1 sẽ khó có khả năng xảy ra trong năm nay và họ cũng nhất trí rằng một cơn đại dịch xảy ra vào năm tới là chưa có cơ sở.
Ngừa bệnh hơn chữa bệnh
Tuy khả năng về một cơn đại dịch xảy ra rất thấp, nhưng trong thực tế, không ai có thể tiên đoán chính xác được tương lai. Và sự thật về khả năng đột biến của H5N1 là một mối quan tâm lớn. Có thể nghĩ đến ba tình huống trong tương lai: một là H5N1 sẽ tiến hóa (hay đột biến) để có khả năng lan truyền từ người sang người qua hòa nhập với các vi-rút khác trong con người; hai là qua đường truyền nhiễm (khi con người bị bệnh truyền nhiễm, vi-rút H5N1 có thể đột biến để thích nghi với cơ thể con người); và ba là H5N1 có thể trở nên trung hòa với cơ thể con người. Trong ba tình huống, vi-rút H5N1 đều có thể trở nên một tác nhân gây bệnh nguy hiểm. Đứng trên quan điểm y tế công cộng, phòng bệnh vẫn hơn là chữa bệnh. Vì thế một số chiến lược cần phải được đề ra và thảo luận:
Thứ nhất là vắc-xin. Bản chất của cúm gia cầm là truyền nhiễm. Do đó, vắc-xin là một biện pháp hàng đầu và hữu hiệu nhất ở mức độ cộng đồng. Trong quá khứ, chính vì thiếu vắc-xin, cho nên con số tử vong vì các nạn dịch lên đến hàng triệu. Tuần vừa qua, các nhà khoa học Việt Nam tuyên bố đã sản xuất thành công vắc-xin phòng chống H5N1, và đó là một tin mừng, một phát triển rất tích cực. Hiện nay, Việt Nam đang tích cực theo chiều hướng phòng ngừa bằng vắc-xin, và đó là một hướng đi hoàn toàn hợp lí. Và nên tập trung công tác vắcxin phòng ngừa ở các đối tượng có nguy cơ cao như trẻ em và người có tuổi.
Thứ hai là tăng cường trữ lượng thuốc chống vi-rút. Hiện nay, có hai loại thuốc được xem là có khả năng phòng chống vi-rút hữu hiệu: đó là M2 ion channel blockers (tức amatadine và rimantadine) có hiệu năng ngăn chặn hoạt động protein M2 trong hầu hết vi-rút cúm, và NA inhibitors (như zanamivir và oseltamivir) thì có hiệu năng làm vô hiệu hóa khả năng tái biến của vi-rút cúm trong khi bệnh nhân bị bệnh truyền nhiễm. Qua đó làm cho vi-rút không có cơ hội xâm nhập vào các tế bào khác của cơ thể.
Thứ ba là cần phải tăng cường truy tìm các trường hợp bị nhiễm vi-rút H5N1. Một biện pháp có lẽ hữu hiệu nhất là phát hiện bệnh nhân kịp thời để cách ly bệnh nhân trước khi lan truyền sang người khác. Theo tôi, nên phát động một chương trình thử nghiệm nước bọt hay thử máu của các bệnh nhân có những triệu chứng liên quan đến nhiễm vi-rút cúm tại tất cả các bệnh viện trong cả nước.
Thứ tư là tăng cường hợp tác quốc tế, nhất là các nước có kinh nghiệm về phòng chống dịch cúm như Thụy Sĩ, Úc, Mĩ và Pháp.
Vacxin H5N1 đang được thử nghiệm tại nhiều nước trong đó có của công ty Omninvest-Hungary. Anh: Reuters
|
Không nên hoảng hốt!
Tiên đoán một cơn đại dịch sẽ xảy ra nay mai với hàng trăm triệu người chết là một tiên đoán quá vội vàng và thiếu cơ sở khoa học, bởi vì không ai biết trước nạn dịch sẽ bùng phát hay được khống chế như thế nào; không ai biết được có bao nhiêu người bị ảnh hưởng. Việc so sánh về khả năng dịch cúm gia cầm H5N1 với nạn dịch năm 1918 ở Tây Ban Nha có vẻ gượng ép vì không đúng chỗ. Vào thời đó (1918) Âu Châu đang bị suy yếu kinh tế sau 4 năm chiến tranh, và việc phát triển các phương tiện cấp cứu cũng như vắc-xin chống cúm rất hạn chế. Còn ngày nay, y học thế kỉ 21 đã tiến bộ rất nhiều và khoa học có khả năng giải mã cấu trúc di truyền của vi-rút, có thể sản xuất vắc-xin phòng chống cúm ở qui mô lớn. Xin nói rõ hơn rằng nguy cơ hay xác suất mà con người bị nhiễm vi-rút H5N1 cực kì thấp. Phần lớn những trường hợp bị nhiễm vi-rút này là những người thường tiếp xúc, va chạm với các mô bị nhiễm như gia cầm chết, máu, hay phân của gia cầm. Cần phải nhấn mạnh rằng một khi thịt gà, vịt hay heo đã được nấu chín thì nguy cơ bị nhiễm cúm gia cầm cực thấp nếu không muốn nói là không có.
Trường hợp bệnh SARS là một ví dụ gần nhất nhưng mang tính cổ điển nhất. Khi bệnh SARS được phát hiện vào năm ngoái, WHO và một số chính phủ Tây phương tiên đoán sẽ có hàng triệu người chết và nền kinh tế toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhưng cho đến nay, thống kê cho thấy chưa đến 800 người không may bị chết trong số 8.400 người bị bệnh SARS. Mất mát này không thể nói là một đại dịch.
Cúm gia cầm chưa phải là một vấn nạn, bởi vì so với các cúm khác thì nó chỉ là một vấn đề nhỏ. Mỗi năm có khoảng 250.000 đến 500.000 người chết vì bệnh cúm trên thế giới; khoảng 1 đến 2,7 triệu người, phần lớn ở Phi Châu, chết vì bệnh sốt rét; ngay cả bệnh lao vẫn còn giết chết gần 2 triệu người hàng năm, và 98% những người chết vì lao sống trong các nước đang phát triển; tai nạn giao thông (kể cả tai nạn xe tàu) giết chết 300.000 người Á Châu hàng năm… Đặt vấn đề “cúm gia cầm” trong bối cảnh như thế, chúng ta dễ dàng nhận thức còn nhiều vấn đề lớn và nghiêm trọng khác hơn.
Vi-rút và bệnh tật đã, đang và sẽ tồn tại cùng chúng ta trong cuộc sống; chúng ta không có cách nào loại trừ chúng hoàn toàn. Vấn đề không phải là tìm cách loại trừ chúng (vì không thể làm được) mà phải học cách sống với chúng một cách sáng suốt và có lí trí. Nhận thức về những rủi ro như dịch cúm gia cầm là một điều cần thiết nhưng là để tránh những điều không nên làm chứ không phải để hốt hoảng.