Đánh giá nguy cơ rủi ro sức khỏe khi ăn sò vẹm có vi nhựa
Các nhà nghiên cứu tại Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, ĐH Khoa học tự nhiên (ĐHQGHN) và ĐH Bách khoa Đà Nẵng đã thực hiện một nghiên cứu đánh giá mức độ nhiễm vi nhựa trong sò vẹm và nguy cơ rủi ro sức khỏe của con người khi ăn sò vẹm.

Sự xuất hiện của vi nhựa trong thực phẩm trên toàn thế giới đã làm dấy lên lo ngại về nguy cơ rủi ro tiềm năng đối với sức khỏe con người và an toàn thực phẩm. Do đó, cần phải có thông tin về tình trạng nhiễm vi nhựa trong thực phẩm để có thể phòng ngừa và cảnh báo người tiêu dùng.
Các nhà nghiên cứu cho biết, hải sản là một phần cơ bản trong chế độ ăn của con người khi cung cấp protein chất lượng cao, axít béo omega-3 và nhiều dưỡng chất thiết yếu cho một thế độ ăn lành mạnh, sức khỏe tim mạch, phát triển não. Tuy nhiên, do ô nhiễm môi trường ngày một gia tăng ảnh hưởng không nhỏ đến thói quen tiêu dùng, chủ yếu do lo ngại về các chất ô nhiễm tiềm năng, trong đó có vi nhựa.
Do có nhiều trong môi trường nên vi nhựa có nhiều cơ hội đi vào chuỗi thức ăn. Hiện tại vi nhựa đã được tìm thấy trong gạo, sữa, hải sản, sản phẩm đóng gói, muối, nước mắm, xì dầu, cá khô, mật ong, bia và nhiều loại nước ngọt… Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, đã phát hiện vi nhựa trong phân, chỉ dấu chúng có thể xâm nhập vào hệ tiêu hóa qua con đường thực phẩm, do đó có nguy cơ rủi ro với sức khỏe con người.
Trong số nhiều loại hải sản, các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ như sò, hàu, và trai có thể đóng vai trò sinh thái quan trọng và được chế biến thành nhiều món ăn ưa thích trên toàn thế giới. Do cơ chế lọc nước tìm dưỡng chất, chúng có thể hấp thụ nhiều loại vi nhựa trong môi trường sống tự nhiên, với nồng độ tích tụ cao hơn từ ba đến năm lần so với những loài động vật biển khác. Việc chúng thường xuyên có mặt trong chế độ ăn của người, các loài này được coi là một nguồn phơi nhiễm vi nhựa cho con người. Trung bình, lượng vi nhựa mà con người hấp thụ qua ăn các loài nhuyễn thể cao hơn so với cá và các loại hải sản khác, khoảng từ 0,01 đến 1.620 vật thể/ngày và từ 4,2 đến 218.400 vật thể/năm.
Ở Việt Nam, dẫu đã có vô số nghiên cứu tìm hiểu về vi nhựa trong các loài nhuyễn thể hai mảnh voe nhưng nghiên cứu về vi nhựa trong các sản phẩm qua chế biến vẫn còn ít ỏi. Những sản phẩm này có thể tích tụ vi nhựa trong quá trình chế biến, đóng gói, lưu trữ và vận chuyển. Việc nhận diện được vi nhựa trong nhuyễn thể hai mảnh vỏ qua chế biến sẽ đem lại cơ sở chính xác hơn cho đánh giá khả năng phơi nhiễm của người thông qua quá trình ăn uống.
Vì vậy, nhóm các nhà nghiên cứu đã đặt giả thuyết là các sản phẩm từ nhuyễn thể hai mảng vỏ ở Việt Nam có thể nhiễm vi nhựa, do đó có thể là con đường tiềm năng cho phơi nhiễm qua đường tiêu hóa. Do đó, nghiên cứu này được thiết kế nhằm (i) tìm hiểu về sự hiện diện và đặc điểm của vi nhựa trong ruột các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ; (ii) ước tính việc hấp thụ vi nhựa hằng ngày và hằng năm qua việc ăn các sản phẩm này; và (iii) đánh giá nguy cơ rủi ro phơi nhiễm liên quan, bao gồm nhân tố ô nhiễm vi nhựa, chỉ số tải lượng ô nhiễm vi nhựa và chỉ số rủi ro polymer.
Tìm vi nhựa trong sò, vẹm
Các nhà nghiên cứu đã tìm mua sản phẩm thương mại chứa ruột các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ tại siêu thị và chợ ở Đà Nẵng vào giữa tháng 7 và tháng 9/2024. Tất cả các mặt hàng này đều là sản phẩm của doanh nghiệp chế biến hải sản Việt Nam và trải qua quá trình sơ chế, bao gồm tách vỏ, sau đó đóng gói chân không với trọng lượng nửa cân đến một cân, bao gồm hàu, vẹm, trai.
Kết quả phân tích cho thấy, vi nhựa có mặt trong tới 92% mẫu phân tích. Sự xuất hiện của vi nhựa trong các mẫu cho thấy sự phân bố rộng khắp của vi nhựa trong các loài nhuyễn thể. Trung bình, sự phong phú của vi nhựa trong tất cả các mẫu từ 0,24 ± 0.21 vật thể/g. Tuy nhiên, lượng vi nhựa trong ruột các mẫu nhuyễn thể này cho thấy thấp hơn so với mẫu nhuyễn thể tươi ở Việt Nam. Kết quả này cho thấy sản phẩm qua chế biến chứa lượng vi nhựa thấp hơn so với nhuyễn thể tươi. Tuy nhiên một số nghiên cứu khác lại cho kết quả ngược lại. Các nhà khoa học giả định là có thể có ô nhiễm tiềm năng do quá trình chế biến như tách vỏ hoặc các thực hành vệ sinh không hiệu quả.
So sánh với một số nghiên cứu khác, các nhà nghiên cứu cho rằng lượng vi nhựa trong sò vẹm của họ tương tự lượng trong các sản phẩm vẹm qua chế biến ở Ý, thấp hơn ở sản phẩm sò vẹm khô Trung Quốc, vẹm chế biến ở Anh, trai muối ở Hàn Quốc và ngược lại, cao hơn so với vẹm đóng hộp ở Bồ Đào Nha. Điều này cho thấy sự khác biệt về vị trí địa lý, đặc điểm tăng trưởng và đặc trưng nơi sống cũng như quá trình chế biến đều ảnh hưởng đến lượng vi nhựa tích tụ.

Đáng chú ý, hình dạng vi nhựa trong sò vẹm cho thấy, dạng sợi phổ biến nhất, tiếp theo là dạng mảnh. Nhìn chung, dạng sợi chiếm ưu thế với 53,12%, tiếp theo dạng mảnh (40,63%) và hạt (6,25%). Nhiều nghiên cứu trước đây cũng cho kết quả tương tự. Sự xuất hiện phố biến cũng phản ánh sự lấn át của vi nhựa dạng sợi trong môi trường và chuỗi thức ăn.
Kích thước của vi nhựa cũng rất đa dạng, từ 20 đến 854,7 µm, với kích thước trung bình từ 309,12 ± đến 244,16 µm. Nhìn chung, sự phân bố kích thước là các vật thể nhỏ hơn 100 µm chiếm 21,88%, tiếp theo là lớn hơn 101 – 200 µm và 201-300 µm đều chiếm 18,75%, 301 – 400 µm và 401 – 500 µm đều chiếm 9,38%… Sự phổ biến của vi nhựa dạng kích thước nhỏ là do chúng tương đồng với các loại thức ăn tự nhiên của các loài nhuyễn thể, như tảo cát và sinh vật phù du, nên bị hút vào một cách tình cờ.
Dẫu các hạt vi nhựa có kích thước lớn hơn 150 µm không được cơ thể hấp thụ nhưng sự tiếp xúc trực tiếp với các tế bào biểu mô trong ruột thông qua lớp nhầy có thể làm viêm nhiễm và gây sức ép miễn dịch tại chỗ, có thể làm thay đổi một cách đáng kể khả năng thấm của biểu mô ruột. Ngược lại, vi nhựa dưới 150 µm có thể di chuyển khắp thành ruột, chạm đến các hạch bạch huyết và các cơ quan khác, làm tạo ra các nguy cơ rủi ro sức khỏe. Do người ta đã phát hiện được các vi nhựa kích thước nhỏ trong các mẫu mô người, bao gồm lá lách và gan (4 – 30 µm), nhau thai (5 – 50 µm), nước bọt (20 – 500 µm), tóc, da (100 – 500 µm) nên có thể giả định rằng xấp xỉ 25% lượng vi nhựa trong các loài nhuyễn thể có thể vượt qua hàng rào ruột thông qua ăn uống và có tiềm năng tích tụ trong vô số cơ quan của cơ thể người.
Vi nhựa trong các loài nhuyễn thể thuộc về 8 loại polymer. Chiếm ưu thế là ethylene vinyl alcohol (EVOH), polyamide (PA) với 28,13% và 25,00%, tiếp đến là cellophane (CP) 12,50% còn polyethylene (PE), polyester (PES), và polypropylene (PP) đều 9,37%. Các loại polymer này đều có trong những sản phẩm gia dụng và thương mại, ví dụ lưới đánh cá, các ngư cụ khác cũng như trong hàng dệt may, lốp xe, thảm, đồ dùng nhà bếp, thiết bị điện tử, bao bì thực phẩm, hộp nhựa, chai lọ, dược phẩm, vật liệu vệ sinh, mỹ phẩm, vật liệu cách nhiệt…
Dựa trên dữ liệu này, nguồn vi nhựa trong các loài nhuyễn thể có thể được quy cho hai nguồn chính: chính các loài nhuyễn thể và (ii) ô nhiễm trong quá trình chế biến. Kết quả của nghiên cứu cho thấy, việc giảm thiểu lượng vi nhựa trong quá trình chế biến sẽ có thể làm giảm đáng kể lượng vi nhựa trong các sản phẩm. Nguồn thứ hai có mối liên hệ chặt chẽ với toàn bộ quá trình chế biến, bao gồm đóng gói, lưu trữ, phân bố và tiêu thụ. Sự ô nhiễm cũng có thể do các thành phần trong sản xuất và lưu trữ như quá trình cân với các công cụ như giỏ nhựa, thùng, găng tay, nước và không khí. Do đó, việc giảm vi nhựa trong quá trình chế biến có thể là làm giảm lượng vi nhựa trong sản phẩm.
Nguy cơ với sức khỏe từ vi nhựa trong sò, vẹm

Các nhà nghiên cứu đã đánh giá nguy cơ sức khỏe từ vi nhựa bằng việc ước tính lượng hấp thụ hàng ngày (EDI) và ước tính lượng hấp thụ hàng năm (EAI) thông qua việc ăn sò vẹm, trai đã tách vỏ.
Thông thường, lượng EDI cao nhất được quan sát thấy ở nhóm nam và nữ từ 3 đến 5 tuổi, với giá trị lần lượt là 0,63 và 0,56 vật thể/kg/ngày. Ngược lại, EDI thấp nhất được tìm thấy ở nhóm 50 đến 74 tuổi với 0,17 vật thể/kg/ngày đối với cả hai giới. Nhìn chung, EDI trung bình ở tất cả các nhóm tuổi và giới tính là 0,29 vật thể/kg/ngày. Một xu hướng liên quan đến độ tuổi tương tự cũng đã được báo cáo trong các nghiên cứu trước đây liên quan đến nhiều mặt hàng thực phẩm khác nhau.
Trong nghiên cứu này, ước tính lượng vi nhựa hấp thụ hàng năm do ăn sò vẹm dao động từ 1.581 đến 6.087 vật thể/người/năm, trung bình là 4.085 ± 1.274 vật thể/người/năm. Nhóm tuổi từ 6 – 14 tuổi thuộc nhóm có lượng hấp thụ hàng năm cao nhất, trong khi nhóm thấp nhất là nhóm dưới 3 tuổi. Trước đây, có nghiên cứu ước tính lượng vi nhựa hấp thụ hằng năm qua ăn nhuyễn thể hai mảnh vỏ tươi dao động từ 2.489 đến 18.304 vật thể/người/năm. Việc hấp thụ vi nhựa không chỉ phụ thuộc vào độ tuổi mà còn phụ thuộc vào giới tính, lối sống, chế độ ăn uống, sức khỏe và điều kiện môi trường. Điều này càng thêm nhấn mạnh vào bản chất phức tạp của việc phơi nhiễm vi nhựa. Do đó, cần có nhiều nghiên cứu hơn nữa ở các nhóm nhân khẩu học khác nhau để hiểu được những tác động tiềm ẩn đối với sức khỏe con người.
Ăn uống là con đường chính khiến con người phơi nhiễm vi nhựa và nano nhựa, với lượng tiêu thụ hàng năm ước tính từ 39.000 đến 52.000 vật thể/người, trong đó chỉ riêng ăn nhuyễn thể đã chiếm tới 11.000 vật thể. Hiện người Việt Nam đứng thứ tư trên toàn cầu về mức phơi nhiễm vi nhựa qua ăn uống, với lượng tiêu thụ hàng ngày là 363,6 mg/người, chủ yếu là do ăn nhiều hải sản. Dù chưa có dữ liệu chi tiết về mức ăn sò vẹm nhưng rõ ràng, việc ăn sò vẹm là con đường tiềm ẩn đưa vi nhựa vào cơ thể, có tiềm năng gây rủi ro cho sức khỏe.
Tuy nhiên, may mắn là giá trị chỉ số tải lượng ô nhiễm vi nhựa (MPLI) nhỏ hơn 10 cho thấy nguy cơ nhiễm vi nhựa thấp trong các mẫu nghiên cứu. Dẫu vậy, chỉ số nguy cơ polyme (PHI) ở mức IV cho thấy các rủi ro tiềm ẩn đối với sức khỏe và lượng vi nhựa ước tính hấp thụ hàng ngày (EDI) cao nhất được ghi nhận ở nhóm tuổi từ 3 – 5 tuổi, làm dấy lên lo ngại về việc tiếp xúc tích lũy theo thời gian. Các nhà nghiên cứu lưu ý, những phát hiện chính của nghiên cứu này có thể không phản ánh đầy đủ tình hình chung về ô nhiễm vi nhựa trong hải sản chế biến tại Việt Nam. Vì vậy, cần có nghiên cứu thêm để cải thiện dữ liệu về ô nhiễm và nâng cao đánh giá rủi ro.
Dựa trên kết quả thu được, nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải pháp để giảm thiểu ô nhiễm vi nhựa trong thực phẩm: i) Theo dõi lượng vi nhựa trong các thực phẩm và coi đó là thông số quan trọng trong tiêu chuẩn chất lượng thực phẩm; (ii) Khuyến khích và thực hiện các chính sách hỗ trợ sản xuất, chế tạo và sử dụng các vật liệu thay thế nhựa tổng hợp, thân thiện với môi trường; (iii) cần kiểm soát từng giai đoạn sản xuất thực phẩm để giảm thiểu khả năng giải phóng vi nhựa, loại bỏ ô nhiễm vi nhựa trong suốt quá trình sản xuất; (iv) Nâng cao hiệu quả loại bỏ vi nhựa tại các nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt và công nghiệp và tăng cường quản lý, thu gom và xử lý rác thải nhựa tại nguồn; (v) Kiểm soát các yếu tố môi trường, hạn chế sử dụng dây và lưới nhựa trong nuôi trồng thủy sản và xem xét mức độ vi nhựa trong nước thải đã xử lý trước khi xả vào môi trường nước, triển khai các chính sách xử phạt việc xả thải nhựa song song với thúc đẩy thu gom, phân loại và tái chế rác thải nhựa.
Kết quả được nêu chi tiết trong bài báo “Microplastics in shucked bivalve products from Vietnam: Presence, characteristics, human exposure, and risk assessment”, xuất bản trên tạp chí Journal of Food Composition and Analysis.
Anh Vũ
Nguồn: “Microplastics in shucked bivalve products from Vietnam: Presence, characteristics, human exposure, and risk assessment”, Journal of Food Composition and Analysis. https://doi.org/10.1016/j.jfca.2025.107885