Làm ra công nghệ có khó?
Nhà khoa học có thể làm ra sản phẩm công nghệ nhưng việc thương mại hóa nó thành công lại không phụ thuộc vào họ.
Phòng thí nghiệm công nghệ nano, trường đại học KH&CN Hà Nội (USTH). Nguồn: USTH
Trước hết, nhìn vào lĩnh vực vật liệu ứng dụng trong vật lý quang học và điện tử hoặc quang tử, vi điện tử, điện tử nano, lượng tử…, chúng ta có thể thấy có hai vấn đề: 1. Xét về mặt khoa học là ngành mạnh của Việt Nam vì số lượng công bố khá nhiều; 2. Xét về mặt tạo ra được công nghệ thì tương đối ít người làm bởi làm vật liệu để viết công bố xuất bản trên tạp chí có uy tín của thế giới đã là rất khó nhưng làm ra vật liệu có thể ứng dụng, doanh nghiệp sử dụng để tạo thành sản phẩm bán được trên thị trường thì độ khó của nó cũng ngang với những công bố cao như vậy.
Việc có được công bố tốt khó vì muốn được như vậy phải kết hợp nhiều yếu tố như trình độ thành viên, hệ thống cơ sở vật chất bởi vật liệu quang, vật liệu điện tử mà không có máy đánh giá đặc trưng để tìm hiểu tính chất, cấu trúc thì không làm gì được, ngay cả muốn công bố trên tạp chí bình thường cũng không được chứ chưa mong gì đến công bố tốt. Tôi nghĩ nếu minh làm trong một lĩnh vực nào đó đủ lâu và đủ sâu thì đến một lúc nào đó, mình cũng sẽ có khả năng làm ra được những công bố tốt. Nhìn lại một nhóm nào đó làm việc đủ sâu và đủ lâu, liên tục trong vòng 5 đến 10 năm thì sẽ đạt được kết quả như vậy. Hiện ở Việt Nam, chỉ có một số nghiên cứu có thể có công bố ở tạp chí có ảnh hưởng cao như nhóm của các giáo sư Nguyễn Văn Hiếu, Phạm Thành Huy (trường đại học Phenikaa).
Ở hướng làm ra được công nghệ để từ vật liệu ra đến linh kiện có khả năng đóng gói trong thiết bị lại có những đòi hỏi khác. Người dùng cuối không dùng đến vật liệu, cũng không dùng đến linh kiện mà chỉ dùng thiết bị, ví dụ trong điện thoại – thiết bị – có nhiều linh kiện như màn hình, cảm biến đọc vân tay, camerra chụp ảnh… Do đó, nếu muốn sản phẩm ra được đến thị trường, đến được người dùng thì ít nhất là nhà khoa học vật liệu phải có mặt trong quy trình chế tạo linh kiện và thiết bị đó. Nhưng liệu gia nhập quy trình đó có dễ thực hiện? Hãy nhìn vào thực tế Việt Nam hiện nay, việc sản xuất thiết bị, linh kiện của Việt Nam chưa nhiều và rất chật vật để cạnh tranh. Các nhà sản xuất trong nước khi cần đến các linh kiện điện tử như chip, sensor cảm biến vân tay… thì họ cũng đều chọn cách làm đơn giản và nhanh chóng là đi nhập hơn là chọn nhà cung cấp trong nước. Quyết định của họ cũng có lý bởi sản phẩm của họ phải cạnh tranh với sản phẩm quốc tế cùng loại và bài toán ở đây, ngoài chất lượng, độ ổn định thì còn có cả chi phí. Rong khi đó, các doanh nghiệp FDI khi vào đến Việt Nam thường cũng không chọn các nhà sản xuất trong nước vì theo quan sát của tôi, họ thường mang theo công nghệ đã định hình, “đón sóng” ưu đãi trong chính sách đối với doanh nghiệp FDI của chính phủ Việt Nam chứ không muốn đầu tư vào R&D. Ví dụ trong lĩnh vực sản xuất pin mặt trời, các doanh nghiệp Trung Quốc lập nhà máy ở Việt Nam để đón làn sóng trước sau sẽ có là chính sách trợ giá, hỗ trợ dùng điện mặt trời hoặc việc sản xuất ở Việt Nam tránh được một số áp phá giá nếu chỉ sản xuất ở Trung Quốc.
Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên nhìn vào những khó khăn như vậy mà cảm thấy hết hi vọng. Tôi cho rằng trong tương lai xa hơn, các nhà khoa học vật liệu có thể phải nghĩ đến những xu hướng chính của thế giới, nếu không theo được thì chắc chắn mình sẽ bị loại, ví dụ như linh kiện lượng tử, AI, IoT… dùng trong thiết bị lượng tử. Ngoài ra, chúng ta nên nghĩ đến những vấn đề thiết thực như mỗi quốc gia đều có lĩnh vực đặc thù mà mình không làm thì không ai làm giúp mình, hoặc nếu đi mua thì phải bỏ rất nhiều tiền. Nhà khoa học nên hướng đến những công nghệ mà mình cần phải tự phát triển hoặc giải mã công nghệ và cải tiến công nghệ sẵn có của nước ngoài thành những công nghệ mang tính đa dụng, có thể là thứ công nghệ mà mình có thể phát triển được, ứng dụng được trên một chuỗi sản phẩm tiếp theo, ví dụ cái chip ảnh hồng ngoại để có thể nhìn trong đêm để ứng dụng trên diện rất rộng: xe tự lái, tăng xử lý hình ảnh bằng ánh sáng không khả kiến, camera an ninh…
Việc áp dụng cách làm này và đạt được kết quả từ đó không chỉ phụ thuộc vào nhà nghiên cứu mà còn phụ thuộc vào việc các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam muốn làm hay không và có đủ cơ sở vật chất để phát triển công nghệ hay không. Tôi tự tin là nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam có thể làm được nếu hội tụ đủ những điều kiện này, nếu không thì những sản phẩm công nghệ mà nhà nghiên cứu làm ra chỉ ở mức vật liệu đơn giản, có thể dùng được luôn… chứ không đi theo phát triển vật liệu thành linh kiện và tích hợp trong thiết bị để dùng.
Có người đặt câu hỏi với tôi “vậy nhà khoa học vật liệu có cần nhà nước hỗ trợ để hình thành quy trình vật liệu – linh kiện – thiết bị”? Tôi cho rằng ở đây nhà nước chỉ nên đầu tư mang tính định hướng đầu tiên với những đầu tư vào nghiên cứu cơ bản hoặc cơ bản định hướng ứng dụng. Ngoài ra, nếu cần gì hơn là cơ chế để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho khoa học, để doanh nghiệp nhận thấy rằng nếu nhà nước đầu tư một đồng thì doanh nghiệp phải đầu tư gấp 100 lần. Nếu chúng ta không làm được điều này thì không bao giờ triển khai được. Lâu nay nhà nước vẫn hô hào là cần bảo vệ thị trường trong nước nhưng thực tế là không hiệu quả. Điều khả thi là nhà nước đầu tư mang tính định hướng ban đầu như ngòi nổ còn người làm ra sản phẩm và tạo ra giá trị cho sản phẩm là doanh nghiệp.
Ở Việt Nam bắt đầu có một số tín hiệu tích cực. Một số doanh nghiệp lớn bắt đầu nghĩ đến việc phải làmra được những sản phẩm phức tạp, tích hợp nhiều loại linh kiện như CMC, FPT, VIN, Viettel… và họ cũng bắt đầu nghĩ đến việc đầu tư cho R&D. Tôi nghĩ rằng, có thể rất cần đến “làn sóng” các CEO vừa làm kinh doanh vừa hiểu về khoa học có được những kế hoạch R&D dài hơi để ra đời những sản phẩm mới…