Người giải mã loài ong

Bất chấp những thách thức lớn lao mà ông phải đối mặt trong suốt sự nghiệp của mình do tình trạng phân biệt chủng tộc, Charles Henry Turner là một trong những nhà khoa học đầu tiên làm sáng tỏ đời sống bí mật của loài ong.

Vào một buổi sáng mùa thu đẹp trời năm 1908, một người đàn ông Mỹ gốc Phi ăn mặc lịch sự sải bước qua những cây sồi ghim, cây mộc lan và cây phong lá bạc của Công viên O’Fallon ở St. Louis, Missouri. Sau khi đặt cả chục đĩa mứt dâu tây lên một số bàn ăn ngoài trời, nhà sinh vật học Charles Henry Turner tới ngồi trên một băng ghế dài gần đó, sẵn sàng mở cuốn sổ và cầm bút chì.

Sau giờ nghỉ giữa sáng để uống trà ăn bánh mì nướng, Turner quay trở lại thí nghiệm ngoài trời. Vào buổi trưa và một lần nữa vào lúc chạng vạng, ông đặt những món ăn đầy mứt trên bàn công viên. Theo ông phát hiện, ong mật (Apis mellifera) là những vị khách thường xuyên ghé vào bữa sáng, bữa trưa và bữa tối để tham gia bữa tiệc tự chọn toàn đường này. Sau một vài ngày, Turner ngừng cung cấp mứt vào giữa trưa và hoàng hôn, và chỉ bày ra món ăn vào lúc bình minh. Ban đầu, đàn ong tiếp tục xuất hiện ở cả ba lần. Tuy nhiên, ngay sau đó, chúng thay đổi mô hình đến, chỉ ghé thăm bàn ăn ngoài trời vào buổi sáng.
Thí nghiệm đơn giản nhưng được thiết kế tinh tế này đã khiến Turner kết luận rằng ong có thể nhận thức được thời gian và sẽ nhanh chóng phát triển thói quen kiếm ăn mới để đáp ứng với các điều kiện thay đổi. Đây là một trong những kết quả đầu tiên trong chuỗi khám phá đột phá mà Turner đã thực hiện về hành vi của côn trùng.
Trong suốt 33 năm sự nghiệp nổi bật của mình, Turner là tác giả của 71 bài báo và là người Mỹ gốc Phi đầu tiên công bố nghiên cứu của mình trên tạp chí Science uy tín. Tuy ngày nay hầu như không nhiều người biết đến tên tuổi của ông, nhưng Charles Henry Turner là người đi tiên phong trong việc nghiên cứu loài ong, người đàn ông này phải được nhìn nhận là một trong những nhà côn trùng học vĩ đại của thế kỷ 19 và 20. Công trình tiên phong của Turner về nhận thức côn trùng đã tạo nên phần lớn nghiên cứu đột phá của ông về hành vi của động vật.
Turner sinh ra ở Cincinnati vào năm 1867, chỉ hai năm sau khi cuộc Nội chiến kết thúc. Là con trai của một người coi sóc nhà thờ và một y tá trước đây từng bị bắt làm nô lệ, ông lớn lên dưới bóng ma của Jim Crow – một tập hợp các luật chính thức và thực hành không chính thức đẩy người Mỹ gốc Phi rơi vào tình cảnh là tầng lớp hạng hai.
Thời thơ ấu, Turner trải qua tình cảnh phân biệt nhà ở và trường học , thường xuyên diễn ra cảnh hành quyết lin-sơ và từ chối các quyền dân chủ cơ bản đối với người dân không da trắng của thành phố. Dẫu gặp nhiều trở ngại to lớn ngăn mình hướng tới các mục tiêu giáo dục và khát vọng nghề nghiệp, tinh thần ngoan cường của Turner đã giúp ông vượt qua.
Khi còn là một cậu bé, ông đã nuôi dưỡng niềm đam mê mãnh liệt với những sinh vật bé nhỏ, bắt và lập danh mục hàng nghìn con kiến, bọ cánh cứng và bướm. Năng khiếu về khoa học chỉ là một trong nhiều tài năng của Turner. Tại trường trung học Gaines, ông có học lực đứng đầu lớp toàn học sinh Da đen, chiếm giữ vị trí thủ khoa.
Turner tiếp tục lấy bằng Cử nhân Khoa học tại Đại học Cincinnati, và ông trở thành người Mỹ gốc Phi đầu tiên nhận bằng tiến sĩ về động vật học tại Đại học Chicago. Luận án tiến sĩ độc đáo của Turner, “Bản năng tìm đường về tổ của kiến: Nghiên cứu thực nghiệm về hành vi của kiến,” sau này nó được trích đăng trong số tháng 9/1907 của tạp chí Thần kinh học So sánh và Tâm lý học.
Có tài năng lỗi lạc là thế, Turner lại không thể giữ được vị trí nhân viên dài hạn trong nền giáo dục đại học. Đại học Chicago đã từ chối mời ông làm việc, và Booker T. Washington quá thiếu ngân sách để thuê ông làm việc tại Học viện Công nghiệp và Thông thường Tuskegee toàn người Da đen ở Alabama.
Sau một thời gian ngắn làm việc tại Đại học Cincinnati và một vị trí tạm thời tại Cao đẳng Clark (nay là Đại học Clark Atlanta), Turner dành phần còn lại của sự nghiệp giảng dạy tại Trường Trung học Sumner ở St. Louis. Vào năm 1908, ông được trả khoản lương còm cõi là 1.080 USD một năm – khoảng 34.300 USD ngày nay. Tại Sumner, tuy ông không có quyền tiếp cận các phòng thí nghiệm được trang bị đầy đủ, thư viện nghiên cứu hay các nghiên cứu sinh, thế nhưng Turner đã có những khám phá tiên phong về hành vi của côn trùng.
Vào đầu những năm 1900, các nhà sinh vật học đã biết rằng hoa thu hút ong thụ phấn bằng cách tạo ra một số mùi hương nhất định. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu này không biết gì về các khía cạnh trực quan của những mùi hương thu hút đó, khi những con ong ở quá xa những bông hoa để ngửi thấy được.
Để điều tra, Turner đã đóng nhiều hàng chốt gỗ trên bãi cỏ của Công viên O’Fallon. Trên mỗi chốt, ông gắn một chiếc đĩa màu đỏ nhúng trong mật ong. Chẳng bao lâu, những con ong bắt đầu di chuyển từ xa đến “những bông hoa” tạm thời này.
Sau đó, Turner đã thêm một loạt các thanh “kiểm soát” gắn các đĩa màu xanh lam không nhúng mật ong. Những con ong ít chú ý đến “những bông hoa” mới, chứng tỏ các tín hiệu hình ảnh cung cấp hướng dẫn khi những con ong ở quá xa để ngửi thấy mục tiêu của chúng. Tuy khả năng phát hiện màu đỏ của con ong mật vẫn còn gây tranh cãi, nhưng các nhà khoa học đã xác định rằng những con ong của Turner có khả năng phản ứng với một thứ gọi là kích thích achromatic, thứ cho phép chúng phân biệt giữa các sắc thái và sắc màu khác nhau.
Một loạt các phát hiện đáng kinh ngạc của Turner từ ba thập niên thử nghiệm đã khẳng định danh tiếng của ông, một chuyên gia có quyền lên tiếng về các kiểu hành vi của ong, gián, nhện và kiến.
Là một nhà nghiên cứu khoa học không có vị trí trong trường đại học, ông lại tìm được chỗ đứng cho mình trong một ngách hẹp lạ kỳ. Đa phần hoàn cảnh của Turner là sản phẩm của sự phân biệt chủng tộc có hệ thống. Đó cũng là kết quả từ lòng tận tụy của ông khi hết mình đào tạo các sinh viên Da đen trẻ về khoa học.
Cùng với các ấn phẩm khoa học của mình, Turner đã viết nhiều về nền giáo dục của người Mỹ gốc Phi. Trong bài luận năm 1902, “Liệu Giáo dục của người Da đen có giải quyết được vấn đề chủng tộc không?” Turner cho rằng các trường thương mại không phải là con đường dẫn đến việc trao quyền cho người Da đen. Thay vào đó, ông kêu gọi giáo dục công khai rộng rãi cho người Mỹ gốc Phi ở mọi đối tượng: “nếu chúng ta gạt bỏ những định kiến của mình sang một bên và cố gắng áp dụng nền giáo dục cao nhất cho cả người da trắng và Da đen, trong một vài thập kỷ nữa sẽ không có vấn đề người Da đen”.
Turner qua đời sớm ở tuổi 56 tuổi vì bệnh viêm cơ tim cấp, một chứng viêm tim truyền nhiễm, bỏ lại hai người con và người vợ thứ hai, Lillian Porter.
Ngọc Đỗ

Tác giả

(Visited 4 times, 1 visits today)