Người trẻ mắc ung thư ngày càng nhiều: Không dễ tìm câu trả lời
Các nhà khoa học đang cố tìm hiểu tại sao ngày càng nhiều người trẻ mắc ung thư, mặc dù hiện nay nhận thức về ung thư, khả năng sàng lọc và các phương pháp điều trị ngày càng tốt hơn.
Một bệnh nhân 16 tuổi từ Trung Quốc, đã bay sang Texas để chữa trị ung thư đường tiêu hóa, căn bệnh vốn thường xảy ra ở người cao tuổi. Cha mẹ của cô bé phải bán nhà để trả viện phí, nhưng đã quá muộn. “Tình trạng của cô bé quá nặng, và tôi đã không thể giúp được gì nhiều,” bác sĩ Catherine Eng tại Trung tâm Y tế Đại học Vanderbilt, kể lại. Cách đó cả ngàn dặm, Bác sĩ ngoại khoa George Barreto, tại Đại học Flinders, Adelaide, Úc, cũng gặp phải những ca bệnh trẻ như vậy.
Quan sát của các bác sĩ điều trị như Eng và Barreto là các ví dụ cho chúng ta thấy tình trạng mắc ung thư ở người dưới 50 tuổi đang tăng lên. Đơn cử ở Mỹ, ung thư đại trực tràng vốn là căn bệnh thường xảy ra ở nam giới từ 65 tuổi trở lên, nay đã trở thành nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở nam giới dưới 50 tuổi. Còn ở phụ nữ trẻ, ung thư trực tràng trở thành nguyên nhân tử vong do ung thư đứng hàng thứ hai. Mặc dù những khác biệt theo quốc gia, loại ung thư, nhưng với tốc độ tăng ung thư khởi phát sớm hiện nay, dự đoán vào 2030, các trường hợp ung thư khởi phát sớm sẽ tăng khoảng 30% so với năm 2019.
Tại sao như vậy? trong khi nhận thức về ung thư, sàng lọc sớm và điều trị ung thư ngày càng tốt hơn. Giờ đây các nhà nghiên cứu đang cố gắng giải thích lý do của hiện tượng này, những yếu tố thường được cho là tác động đến ung thư nhiều nhất, như tình trạng béo phì, hay việc sàng lọc ung thư sớm nhiều lên cũng không thể giải thích đầy đủ. Có lẽ hiện tượng này là sự kết hợp của nhiều nguyên nhân khác nhau. Các nhà khoa học đang tìm câu trả lời trong nhiều nghiên cứu khác nhau, từ nghiên cứ hệ vi sinh đường ruột, hoặc từ phân tích hệ gene của các khối u, một số khác cho rằng dữ liệu về cuộc sống và sức khỏe những người ra đời cách đây nửa thế kỷ có thể mang lại phần nào câu trả lời…
Xu hướng trẻ hóa rõ rệt
Nếu so với xu hướng chung trên toàn cầu, thì tại Mỹ, chính ra tỷ lệ tử vong do ung thư nói chung đang giảm nhờ tăng cường sàng lọc sớm, tỷ lệ hút thuốc lá giảm, và sự tiến bộ của nhiều phương pháp điều trị mới. Nhưng những năm gần đây ngành y lại chứng kiến tỉ lệ các ca ung thư khởi phát sớm ở người dưới 50 tuổi tăng lên, và số ca tử vong do ung thư khởi phát sớm đã tăng hơn 28% từ năm 1990 đến năm 2019.
Các bệnh ung thư khởi phát sớm phổ biến nhất liên quan đến đường tiêu hóa, như ung thư đại trực tràng, ung thư dạ dày, ung thư tụy. Bênh cạnh đó, ung thư vú và ung thư tuyến tiền liệt cũng đang gia tăng.
Tại Mỹ, nơi dữ liệu về ung thư được thống kê nghiêm ngặt, ung thư tử cung trên phụ nữ dưới 50 tuổi đã tăng 2% mỗi năm kể từ giữa thập niên 1990. Ung thư vú khởi phát sớm cũng tăng 3.8% mỗi năm trong khoảng 2016 đến 2019.
Nhìn sâu vào dữ liệu, người ta thấy những bức tranh khác nhau ở các nhóm xã hội khác nhau. Tỷ lệ ung thư ở người trẻ tuổi tại Mỹ tăng nhanh hơn ở nữ giới (so với nam giới) và ở người gốc Mỹ Latinh (so với người da trắng có nguồn gốc khác). Tỷ lệ ung thư đại trực tràng khởi phát sớm tăng nhanh hơn ở người Mỹ bản địa và thổ dân Alaska (so với người da trắng). Và người da đen mắc ung thư khởi phát sớm nhiều khả năng ở độ tuổi trẻ hơn và ở giai đoạn nặng hơn so với người da trắng.
Những năm gần đây, cộng đồng ngày càng nâng cao nhận thức về ung thư. Năm 2018, Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ khuyến cáo sàng lọc ung thư đại trực tràng từ tuổi 45, thay vì 50 như khuyến cáo trước đó. Thậm chí ngay từ năm 2013, giới quản lý y tế một số bang ở Mỹ còn khuyến cáo độ tuổi bắt đầu sàng lọc là 40. Với nhiều nỗ lực, tỷ lệ sàng lọc trong cộng đồng bản địa đã tăng gấp đôi trong ba thập kỷ và hiện vượt qua tỷ lệ sàng lọc ung thư trung bình. Nhưng điều khó hiểu là tỷ lệ tử vong chung do ung thư đại trực tràng vẫn không giảm. Mặc dù tỷ lệ mắc ung thư đại trực tràng đang giảm ở người trên 50 tuổi (nhóm được khuyến cáo sàng lọc), thì tỷ lệ mắc ở người trẻ bản địa ở bang Alaska đang tăng thêm 5.2% mỗi năm.
Có lẽ các yếu tố xã hội, bao gồm khả năng tiếp cận thực phẩm lành mạnh, lối sống và sự khác biệt chủng tộc, đang đóng một vai trò dẫn tới sự khác biệt kể trên. Hay còn điều gì khác?
Bằng chứng di truyền
Sự trùng hợp của những thay đổi về chế độ ăn và sự gia tăng của bệnh ung thư tiêu hóa cho thấy rằng béo phì và các thực phẩm chế biến sẵn có thể là thủ phạm chính. Nhưng các phân tích thống kê cho thấy các nguyên nhân này cũng không thể giải thích đầy đủ bức tranh toàn cảnh.
Trải nghiệm của các bác sĩ lâm sàng hơi khác so với những gì được học: những người trẻ tuổi được điều trị đều có vẻ khỏe mạnh với ít yếu tố nguy cơ ung thư. Chẳng hạn, bác sĩ Eng đang điều trị cho một phụ nữ 32 tuổi, trước đó thì các bác sĩ đều cho rằng tình trạng máu trong phân là do bệnh nhân bị hội chứng ruột kích thích do luyện tập cường độ cao. Nhìn bên ngoài, không ai đoán được khối u đang chiếm quá nửa gan của bệnh nhân.
Các cơ quan nghiên cứu ung thư nổi tiếng như Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ (NCI) và Viện Nghiên cứu Ung thư Anh quốc (CRUK) đã thúc đẩy các chương trình tăng cường phát hiện ung thư khởi phát sớm. Một trong các cách tiếp cận là đánh giá sự khác biệt về di truyền của khối u trên hai đối tượng khác nhau. Nhà nghiên cứu bệnh học Shuji Ogino tại trường y Harvard và các đồng nghiệp đã tìm ra một số sự khác biệt của khối u ác tính trong bệnh ung thư khởi phát sớm. Các khối u này đôi khi đặc biệt “thành thạo” trong việc ngăn chặn phản ứng miễn dịch của cơ thể, và Ogino cũng tìm thấy dấu hiệu của phản ứng miễn dịch “im lặng” trước một số khối u khởi phát sớm. Những khác biệt này rất khó nhận thấy, và ranh giới rõ ràng giữa ung thư khởi phát sớm và khởi phát muộn vẫn không rõ ràng.
Để tìm câu trả lời, các nhà nghiên cứu cũng đang xem xét các vi sinh vật “thường trú” trong cơ thể người. Sự thay đổi về hệ vi sinh này, có căn nguyên là do sự thay đổi chế độ ăn hoặc thuốc kháng sinh, có liên quan đến tình trạng viêm và tăng nguy cơ mắc một số bệnh, bao gồm một số dạng ung thư. Christopher Lieu, chuyên gia tại Trung tâm Ung thư Đại học Colorado tại Aurora, cho biết đây vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ. Danh sách tác động lên hệ vi sinh là rất rộng lớn, cần phải biết người ta đã ăn những gì từ khi còn nhỏ, trong khi bản thân mỗi người có khi còn khó nhớ mình đã ăn gì vào sáng gần đây.
Dữ liệu quá khứ nói lên điều gì?
Eng có tham vọng phát triển một dự án đánh giá tương quan giữa thành phần hệ vi sinh và bệnh ung thư khởi phát sớm, với sự kết hợp dự liệu từ các đồng nghiệp châu Phi, châu Âu và Nam Mỹ. Kimmie Ng, Giám đốc Trung tâm Ung thư đại trực tràng khởi phát sớm tại Viện Ung thư Dana-Farber nhận xét, nếu nhìn đơn lẻ thì ở từng cơ sở y tế, số lượng ca ung thư khởi phát sớm vẫn còn tương đối ít, vì vậy cần có sự phối hợp quốc tế để có các thống kê thuyết phục hơn.
Một cách tiếp cận khác nữa là so sánh giữa các quốc gia. Hàn Quốc và Nhật Bản nằm cạnh nhau, có trình độ kinh tế – xã hội tương đồng, nhưng ung thư đại trực tràng khởi phát sớm đang gia tăng tại Hàn Quốc với tốc độ nhanh hơn Nhật Bản, theo nhà dịch tễ học ung thư Tomotaka Ugai tại Trường y Harvard. Ông hy vọng có thể xác định được lý do.
Nhưng bức tranh dữ liệu tại các quốc gia lại không đồng nhất. Boitumelo Ramasodi, Giám đốc khu vực Nam Phi thuộc Hiệp hội Ung thư Đại tràng Toàn cầu, một tổ chức phi lợi nhuận tại Washington DC, cho biết dữ liệu về ung thư chỉ được thu thập từ 16% dân số có bảo hiểm y tế, và các gia đình hiếm khi lưu hồ sơ của người đã mất vì ung thư. Đối với nhiều người da đen, ung thư là căn bệnh của người da trắng.
Nhà nghiên cứu dịch tễ học Barbara Cohn tại Viện Y tế Công cộng tại Oakland, California, cho rằng, dù khó khăn nhưng cuối cùng, các nhà nghiên cứu cũng phải nhìn lại quá khứ để hiểu biết đầy đủ của sự gia tăng bệnh ung thư khởi phát sớm.
Các nhà nghiên cứu sẽ cần dữ liệu dài hơi tới 40-60 năm, thu thập từ hàng nghìn người. Cohn phụ trách một kho lưu trữ dữ liệu và mẫu máu của khoảng 20,000 phụ nữ mang thai từ năm 1959. Từ đó, bà cùng với nhà dịch tễ học Caitlin Murphy tại Trung tâm Khoa học Sức khỏe tại Đại học Texas-Austin đã tìm ra mối liên hệ tiềm tàng giữa các bệnh ung thư khởi phát sớm và phơi nhiễm trước sinh (của thai nhi) với một dạng thuốc progestine tổng hợp đôi khi được dùng để ngăn ngừa chuyển dạ sớm. Nhưng phát hiện này phải được đối chiếu với các nghiên cứu đoàn hệ khác thì mới có thể khẳng định chắc chắn.
Cần những nghiên cứu đoàn hệ kéo dài nhiều thập niên
Nhưng để tìm kiếm kết quả hữu ích từ các nghiên cứu đoàn hệ từ giai đoạn trước sinh đến tuổi trưởng thành là một thách thức lớn. Ogino cho biết các nghiên cứu đoàn hệ, kéo dài cả đời người, sẽ cần tuyển chọn hàng nghìn phụ nữ sắp làm mẹ tại một số quốc gia, thu thập dữ liệu và các mẫu máu, nước bọt, nước tiểu… và sau đó theo dõi liên tục trong nhiều thập niên. Một nhóm nghiên cứu được tài trợ bởi NCI, CRUK và các tổ chức khác sẽ phân tích dữ liệu từ Mỹ, Mexico và một số nước châu Âu để tim kiếm mức độ phơi nhiễm [với các tác nhân trong] môi trường và những ảnh hưởng khác có thể có đối với nguy cơ mắc ung thư khởi phát sớm. Murphy và Cohn cũng hy vọng có thể kết hợp với phân tích dữ liệu từ người cha và phối hợp với các cộng sự để phân tích mẫu máu kỹ hơn nhằm tìm thêm các hoá chất mà thai nhi đã phơi nhiễm.
Murphy “ban đầu tin có một điều gì đó thực sự cụ thể liên quan đến bệnh ung thư đại trực tràng khởi phát sớm so với bệnh ở người lớn tuổi và có một yếu tố nguy cơ giải thích được mọi thứ”, nhưng càng đi sâu vào nghiên cứu, bà càng nhận ra có rất nhiều rủi ro, và không phải chỉ một yếu tố duy nhất tác động.
Bác sĩ chuyên khoa ung thư Irit Ben-Aharon tại Cơ sở y tế Rambam, Haifa, Israel, cho biết điều quan trọng hiện nay là các bác sĩ phải chia sẻ dữ liệu về bệnh ung thư khởi phát sớm và theo dõi bệnh nhân ngay cả sau khi hoàn thành liệu pháp điều trị để tìm ra cách điều trị tối ưu. Bà cho biết, việc điều trị ung thư ở người trẻ tuổi có thể gặp nhiều khó khăn: một số loại thuốc trị ung thư có thể gây ra các vấn đề về tim mạch hoặc thậm chí là ung thư thứ phát [sau nhiều năm] – đây là nguy cơ rất đáng ngại ở người trẻ tuổi.
Những người trẻ tuổi cũng có thể đang mang thai tại thời điểm chẩn đoán hoặc lo ngại hơn về tác động của thuốc điều trị ung thư đối với khả năng sinh sản. Người trẻ cũng ít có khả năng nghỉ hưu và có nhiều lo lắng về việc trị liệu có gây ra tổn thương lâu dài về nhận thức cũng như cản trở khả năng làm việc của họ hay không.
Khi Candace Henley được chẩn đoán mắc bệnh ung thư đại trực tràng ở tuổi 35, cô là một bà mẹ đơn thân của 5 đứa con. Cuộc phẫu thuật triệt căn (cắt lọc mô và nạo hạch mở rộng) khiến cô không thể tiếp tục công việc tài xế xe buýt và gia đình sớm rơi vào hoàn cảnh vô gia cư. Henley đã thành lập Quỹ Blue Hat nhằm nâng cao nhận thức về ung thư đại trực tràng ở Chicago, Illinois, cho biết: “Tôi không biết nên hỏi gì và nhờ cậy các bác sĩ đưa ra quyết định điều trị”.
Trước mắt, các nhóm vận động nâng cao nhận thức về ung thư bắt đầu nhắm đến các độ tuổi trẻ hơn. Bác sĩ Eng cho biết những người trẻ mắc ung thư đã nắm được nhiều thông tin hơn, và chủ động tham khảo thêm ý kiến chuyên môn nếu cảm thấy bác sĩ bỏ qua triệu chứng của họ. Điều này giúp ngành y tế có nhiều cơ hội phát hiện kịp thời các bệnh ung thư khởi phát sớm để can thiệp trước khi ung thư lan rộng và khó điều trị.
Nhưng Barreto vẫn muốn một câu trả lời toàn diện hơn. Ông muốn có cơ sở dữ liệu để nghiên cứu tác động của những hiện tượng xa hơn nữa như mẹ uống rượu, tiếp xúc khói thuốc hoặc bị suy dinh dưỡng đối với nguy cơ ung thư của con. Đáng tiếc là chưa có dự án hay cơ sở dữ liệu nào trả lời được những câu hỏi này.
Thiếu dữ liệu là điều có thể thông cảm ở hiện tại. “Nhưng nếu 20 năm tới vẫn không có cơ sở dữ liệu liên quan đến vấn đề này, đó sẽ là một thất bại của chúng ta”, Barreto nói.□
Cao Hồng Chiến lượcdịch
Nature 627, 258-260 (2024)
doi: https://doi.org/10.1038/d41586-024-00720-6
Bài đăng Tia Sáng số 8/2024