Những bậc thầy cơ học của đế chế Abbas

Những phát triển mang tính đột phá về cơ học dưới triều đại Abbas, một giai đoạn rực rỡ trong lịch sử Ả Rập thời Trung cổ, là kết quả của sự quan tâm và bảo trợ khoa học của vương triều.

Vương triều Abbas đã đóng góp nhiều vào lịch sử cơ học.

Trong cuốn Paper: Paging through history (Đời giấy: lật từng trang thế giới, theo bản dịch tiếng Việt của Hoàng Ly), tác giả Mark Kurlansky không tiếc lời ca ngợi sự rực rỡ của triều đại Abbas. Họ đã tạo dựng được một kỷ nguyên viên mãn nhờ tinh thần cởi mở, sẵn sàng đón nhận cái mới, cái khác từ những nền văn minh ngoài biên giới lãnh thổ và sự lên ngôi của những tiên tiến KH&CN. Các Caliph (chức sắc cao nhất đối với tín đồ Hồi giáo. Trong nhiều thế kỷ, Caliph cũng giữ vai trò hoàng đế chung của tất cả các nước mà Hồi giáo là quốc đạo) giữ vai trò hàng đầu trong thúc đẩy nghiên cứu khoa học, bảo trợ các học giả và khuyến khích việc dịch các tác phẩm về KH&CN, triết học tiếng Hy Lạp, tiếng Syriac, tiếng Ba Tư trung đại và tiếng Phạn sang tiếng Ả Rập. 

Một trong những lĩnh vực mà họ quan tâm là kỹ thuật cơ học. Dưới triều đại Abbas, sức mê hoặc với cơ học được biểu hiện với ‘automata’ (xuất phát từ tiếng Hy Lạp αὐτόματα, có nghĩa là tự hành động), chỉ các thiết bị được thiết kế tận dụng được tính năng của áp suất khí và nước, các quá trình chứa thủy ngân hoặc lửa để tạo ra vô số hiệu ứng âm thanh và thị giác. Bên trong tòa lâu đài của các caliph, các vị khách có thể thấy các tác phẩm sáng tạo như những bức tượng bằng sắt biết chuyển động, các con chim bằng vàng có thể hót được, đồng hồ nước với những chi tiết tinh vi… Nghề tạo ra các sản phẩm tự động hóa này đã được thăng hoa, dựa trên những ý tưởng và nguyên tắc do các học giả Hy Lạp và La Mã nổi tiếng phát triển như Archimedes, Philo của Byzantium, Hero of Alexandria, và Pappus của Alexandria. Phần nhiều các chuyên luận kỹ thuật đều được dịch từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Á rập, và những chuyên luận mới cũng được viết ra, đóng góp nhiêu hơn vào nghiên cứu kỹ thuật trong suốt thời kỳ này.


Trong văn hóa khoa học Islam, cơ học được xếp ngang hàng với toán học, nhấn mạnh vào nghệ thuật tạo ra các thiết bị tinh xảo, khoa học của trọng lượng (ʿilm al-athqāl), và học thuyết của sự cân bằng (mīzān/mawāzīn).

Trái ngược với những ngành khoa học thiên văn, toán học, y học, hiểu biết của chúng ta ngày nay về lịch sử khoa học dưới triều đại Abbas vẫn còn ít ỏi. Vì vậy, theo TS. Alessia Zubani, một chuyên gia về lịch sử công nghệ thời kỳ cổ đại và Trung cổ Trung Đông, cần tìm thêm các tài liệu và khám phá sự phát triển của cơ học và những phát minh cơ học trong triều đại Abbas, tìm hiểu các nhân vật quan trọng cũng như những đóng góp của họ. Trong bài báo “Masters of Mechanics: Exploring the Science of Ingenious Devices in the Abbasid Empire”, xuất bản trên tạp chí Journal of Abbasid Studies, bà cho rằng có ba lý do để khám phá những phát kiến cơ học thời kỳ này, đó là: thứ nhất, nó sẽ cung cấp một cái nhìn bao quát về môi trường khoa học và môi trường các trí thức đế chế Abbas tồn tại, thảo luận về các học giả tên tuổi như ba anh em Banū Mūsā – những trí thức quan trọng bậc nhất Baghdad trong thế kỷ thứ chín đã dịch các tác phẩm Hy Lạp cổ đại và phát triển các ý tưởng toán học, thiên văn học, kỹ thuật. Tuy nhiên ba anh em nhà Banū Mūsā không phải là những học giả duy nhất về cơ học mà còn có một nhóm gồm nhiều người khác đóng góp vào lĩnh vực này, song công lao của họ bị khuất lấp do công trình bị thất lạc. Khi phân tích sự đóng góp của từng người mới có thể thấy được nỗ lực thực sự trong việc tạo dựng các công trình về tự động hóa, thách thức quan điểm cho rằng họ hiếm khi làm thực nghiệm. Thứ hai, việc nghiên cứu giúp phát hiện ra những kết nối giữa các học giả và người dịch, cũng như so sánh những tương quan giữa văn bản Hy Lạp, văn bản Ả Rập và sự sáng tạo những công trình mới. Nó giúp rọi sáng những mối quan hệ cá nhân giữa các bậc trí giả, nhấn mạnh vai trò của hoạt động giảng dạy, các dự án dịch thuật, sự bảo trợ và các mối hợp tác khoa học trong việc phổ biến kiến thức kỹ thuật. Thứ ba, mối quan hệ giữa người dịch, nhà khoa học và các nhà cơ học trong môi trường vương triều Abba, qua đó nhấn mạnh vào sự quan tâm về các thiết bị cơ học của các hoàng tử và các caliph, sự bảo trợ của họ cho lĩnh vực này.

Từ Alexandria đến Baghdad: Khám phá lịch sử của ©ilm al-hyal

Các tài liệu tiếng Ả Rập đem lại những miêu tả về những sáng chế liên quan đến nghệ thuật hay khoa học của các thiết bị cơ học (ṣināʿat hoặc ʿilm al-ḥiyal al-handasiyya), biểu thị sự ghi nhận một lĩnh vực của chuyên môn và hiểu biết. Thậm chí trong văn hóa khoa học Islam, cơ học được xếp ngang hàng với toán học, nhấn mạnh vào nghệ thuật tạo ra các thiết bị tinh xảo, khoa học của trọng lượng (ʿilm al-athqāl), và học thuyết của sự cân bằng (mīzān/mawāzīn).

Ba anh em nhà Banū Mūsā, trong đó Muhammad là chuyên gia về hình học và thiên văn học, Ahmad chủ yếu về cơ học và al-Hasan chủ yếu về hình học.

Thuật ngữ ḥiyal dùng để chỉ các thiết bị được vận hành theo các nguyên tắc cơ học, khí nén và thủy lực cũng như các quá trình gia nhiệt và chứa thủy ngân. Nó cũng có các nghĩa khác như sự nhân tạo, thiết bị, mánh khóe và mưu mẹo. Vượt qua ngoài lĩnh vực cơ học, nó còn được dùng cho bối cảnh quân sự với nghĩa các kế sách thời chiến, cũng như các mánh lới ma mãnh của những kẻ ăn xin, lang băm và thợ rèn. Cùng với ḥiyal, các cổ văn còn sử dụng từ al-ḥarakāt, “các thiết bị chuyển động” để chỉ đặc điểm của các dạng đồ tạo tác này.

Từ ʿilm al-ḥiyal, xuất hiện trong các văn bản về cơ học được dịch thuật từ tiếng Hy Lạp sang Ả Rập, như bản dịch Hero’s Mechanica của Quṣṭā b. Lūqā’s. Các văn bản dịch thuật này, cùng với những tác phẩm viết bằng tiếng Syria và những ngôn ngữ khác, là một phần của nỗ lực rộng lớn hơn về việc chuyển giao di sản khoa học, triết học và văn học trong thời kỳ đầu của đế chế Abbas và đóng vai trò xúc tác cho các nghiên cứu về khí lực, thủy lực và cơ học. 

Trước khi khám phá lịch sử của các lĩnh vực này trong triều đại Abbas, chúng ta cần hiểu về những đóng góp quan trọng của các học giả Hy Lạp. Trong kỷ nguyên Hy Lạp hóa (Hellenistic era), thành phố Alexandria tăng trưởng nhanh chóng cả về kỹ thuật cơ học và lý thuyết cơ học. Tại thời kỳ này, Ptolemy I Soter sáng lập ra Mouseion (Tổ chức của các Muses) – ngôi nhà của âm nhạc và thi ca, là một ngôi trường triết học và thư viện phỏng theo mô hình Lyceum của Aristotle ở Athens, tạo ra một môi trường lý tưởng cho các học giả thực hiện những nghiên cứu của mình. Mouseion có chức năng như một trung tâm nghiên cứu với một thư viện và quy tụ nhiều học giả là chuyên gia hàng đầu ở vô số lĩnh vực khác nhau. Việc nghiên cứu về lý thuyết cơ học và các thực hành ứng dụng, không nghi ngờ gì nữa, cũng có trong phạm vi hoạt động của Mouseion ở Alexandria. Ba nhân vật đóng góp đáng kể vào lĩnh vực này: Ctesibius và Philo của Byzantium, người hoạt động tích cực trong suốt thế kỷ thứ ba trước công nguyên, và Hero xứ Alexandria, nhà toán học sống vào thế kỷ công nguyên đầu tiên và được coi như nhà phát minh các thiết bị cơ học sớm nhất lịch sử loài người. Dẫu không ghi chép nào của ông còn sót lại đến ngày nay nhưng một số thông tin về công trình của ông vẫn tồn tại thông qua Philo của Byzantium (Belopoeica, 67) và Vitruvius (De Architectura, IX), người cùng với ông tạo ra đàn ống và máy bơm thủy lực.

Một trang của cuốn “Kitāb ma’rifat masāat al-ashkāl al-basīah wa-al-kurīyah” (Sách về đo đạc mặt phẳng và vật thể hình cầu), lưu trữ tại Thư viện ĐH Columbia University, New York.

Philo của Byzantium, người nhỏ hơn Ctesibius ít nhất từ một đến hai thế hệ, để lại một nghiên cứu mở rộng về kỹ thuật cơ học, Compendium of Mechanics (The Mechanike Syntaxis), đề cập đến nhiều chủ đề khác nhau, bao gồm lý thuyết đòn bẩy, xây dựng cảng, nghệ thuật vây hãm thành phố hoặc pháo đài, khí lực học, việc tạo ra thiết bị tự động hóa, xây dựng pháo đào, kỹ thuật công thành… Dẫu nhiều phần trong Mechanike Syntaxis đã bị thất lạc nhưng nhiều phần vẫn còn tồn tại trong các phiên bản tiếng Hy Lạp, Arab, và Latin, ví dụ cuốn về các nguyên tắc khí lực học và các thiết bị (Pneumatica) ở cả bản Arab và Latin. Người ta vẫn chưa rõ khi nào thì luận thuyết của Philo được đưa vào thế giới Ả Rập nhưng bằng chứng cho thấy công trình này đã được biết đến rộng rãi trong giai đoạn cuối thế kỷ bốn/10, trong Faḍāʿil Miṣr (Virtues of Egypt), do ʿUmar, con trai nhà sử học Ai Cập nổi tiếng Abū ʿUmar Muḥammad al-Kindī sáng tác. 

Hero xứ Alexandria là tác giả của một số văn bản kỹ thuật như Pneumatica, Automata, Mechanica. Tác phẩm Mechanica đã được chuyển ngữ sang tiếng Ả Rập do công của Quṣṭā b. Lūqā và được ông đề tặng Abū l-ʿAbbās Aḥmad b. al-Muʿtaṣim, vị caliph đế chế Abbas đời thứ tám. Trong khi người ta vẫn chưa xác định được chắc chắn người bảo trợ thực sự nhưng rõ ràng là Caliph al-Muʿtaṣim có kết nối chặt chẽ với dịch giả. Đây là trường hợp cho thấy các nỗ lực dịch thuật trong suốt thời kỳ này nhận được sự hỗ trợ rất nhiều của các vương công và những người trong vương triều. Caliph al-Maʾmūn đời thứ bảy đã có sáng kiến lập một chương trình dịch thuật có hệ thống, tập trung vào các công trình khoa học, văn chương và triết học từ nhiều ngôn ngữ khác nhau, như Ba Tư Trung đông, tiếng Phạn, Syrie, Hy Lạp sang tiếng Ả Rập. Chương trình này được những người kế vị ông tiếp tục duy trì với nhiều thế hệ học giả, trong đó thu hút các bậc trí giả nổi bật như al-Kindī và anh em nhà Banū Mūsā, những người mà sau đó lại tiếp tục hỗ trợ và tạo điều kiện cho đồng nghiệp của mình cùng thực hiện. Những học giả và nhà dịch thuật hàng đầu như Ḥunayn b. Isḥāq và cháu ông Ḥubaysh b. al-Ḥasan al-Aʿsam al-Dimashqī, Thābit b. Qurra, Quṣṭā b. Lūqā, đều có trong vòng tròn học thuật này để cùng tập trung vào nghiên cứu và dịch các văn bản tiếng Hy Lạp và Hy Lạp cổ về cơ học. Đến thế kỷ thứ ba/9, một số lượng văn bản lớn trong lĩnh vực này đã được dịch sang tiếng Ả Rập, bao hàm nhiều công trình quan trọng như Pneumatica của Philo, Mechanica của Hero, Problemata Mechanica mà trước đây được cho là của Aristot, và cuốn thứ tám trong bộ Collectio của Pappus xứ Alexandria.

Hơn nữa, Kitāb al-Fihrist (The Catalogue), chỉ mục toàn diện về các cuốn sách tiếng Ả Rập của nhà sưu tầm thư mục và nhà sử học Ibn al-Nadīm, gồm các bản dịch của những chuyên luận khác về cơ học và thiết bị cơ khí với những công trình được cho là thuộc về Archimedes và Mūrisṭus – một người được cho là gốc Hy Lạp đã tạo ra các nhạc cụ. Nhiều công trình trong số này vẫn còn tồn tại đến ngày nay, như vô số bản thảo đã được bảo vệ theo thời gian. Nó bao gồm những luận thuyết về đồng hồ nước liên quan đến Archimedes, trong đó miêu tả một cái đồng hồ với một đầu quái vật tóc rắn với đôi mắt có thể thay đổi màu sắc, một con chim ôm lấy quả bóng đặt trên một cái chũm chọe, một cái cây được tô điểm bằng những con chim trên cành, hót váng lên khi những con rắn đột ngột xuất hiện và một người chơi sáo. Tương tự, những công trình về đàn ống và cấu trúc chuông chùm được gán cho Mūrisṭus qua nhiều văn bản viết bằng tiếng Ả rập. Các tập sao lục phong phú của các văn bản được dịch từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Ả Rập đã đặt nền tảng cho truyền thống cơ học khác biệt của người Islam, bao hàm cả các chiều thực hành và lý thuyết, lý giải được các vấn đề liên quan đến các khái niệm về thiết bị cũng như bối cảnh xã hội của các ứng dụng này.


Bất chấp thành công và danh tiếng, anh em Banū Mūsā vẫn gây nhiều tranh cãi. Họ cũng được biết đến với âm mưu chống lại đối thủ, bao gồm cả những người có danh tiếng trong lĩnh vực cơ học.

Các học giả Abbas và những đóng góp của họ

Ba anh em Banū Mūsā

Ba anh em Banū Mūsā, bao gồm Muḥammad, Aḥmad, và al-Ḥasan, là con của Mūsā b. Shākir, một nhà thiên văn học và bạn thân của caliph al-Maʾmūn. Trước khi qua đời, Mūsā b. Shākir đã giao phó các con mình cho caliph al-Maʾmūn để họ được hưởng một nền giáo dục chất lượng cao ở Baghdad. Cả ba đều nhanh chóng thân cận với al-Maʾmūn và sau khi vị caliph này qua đời thì tiếp tục được triều đình của caliph kế vị trân trọng. Họ đều là những nhân vật chính trị và học giả có ảnh hưởng, tham gia tích cực vào những nhiệm vụ mà caliph giao phó. Họ cũng thúc đẩy nghiên cứu khoa học ở Baghdad bằng việc tiếp tục bảo trợ nhiều học giả khác và thực hiện các sứ mệnh mua các cuốn sách nước ngoài từ Byzantium về Baghdad để bảo quản và dịch thuật.

Kết quả là nhiều công trình khoa học quan trọng đã được dịch sang tiếng Ả Rập – nhiều tác phẩm nguyên gốc còn được biết đến ngày nay là nhờ các phiên bản tiếng Ả Rập, ví dụ như cuốn sách thứ tám của bộ Collectio (Pappus), Madkhal Babūs fī l-ḥiyal ka-jarr al-athqāl (Cuốn giới thiệu về các thiết bị cơ học để nâng các vật thể nặng) do một người vô danh trong nhóm học giả của Banū Mūsā dịch. Tuy nhiên, nhóm học giả này không chỉ tập trung vào dịch thuật, nhiều người, bao gồm chính ba anh em, đã trở thành những chuyên gia hàng đầu trong vô số lĩnh vực. Người ta đã xác nhận một cách chắc chắn là ba anh em Banū Mūsā đã viết khoảng 20 công trình toán học, thiên văn học, âm nhạc, các thiết bị quân sự và cơ khí. Thật đáng buồn là chỉ còn sót lại một số công trình trong số này, hai trong số đó về các thiết bị cơ khí: Al-Āla allatī tuzammir bi-nafsihā (Nhạc cụ tự biểu diễn), tập trung vào việc vận hành một cách tự động đàn ống, và Kitāb al-Ḥiyal (Cuốn sách về các thiết bị khéo léo), một công trình miêu tả gần một trăm thiết bị. Cả hai văn bản này đều nêu một cách chi tiết về các thiết bị mà chức năng hoạt động dựa trên sự kết hợp của các nguyên lý áp suất khí tĩnh và thủy tĩnh, qua đó chỉ ra dự đồng hóa của truyền thống Hy Lạp trong cơ học và khí lực hóa. 

Một miêu tả sáng chế cơ học của anh em Banū Mūsā.

Những nguồn này cũng cho thấy anh em Banū Mūsā có những đóng góp vào một số công trình liên quan đến kỹ thuật và cơ khí, trong đó cuốn Ibn al-Nadīm and al-Qiftī mention a Kitāb al-Qarasṭūn (Cuốn sách về cân đòn bẩy) thể hiện sự kết nối giữa họ với những học giả đương thời cũng nghiên cứu về lĩnh vực này mà những cái tên nổi danh như Muʿtazilī theologian Muʿammar al-Sulamī, người theo Ibn al-Nadīm là đã tạo ra một chuyên luận về cân đòn bẩy Kitāb ʿIllat al-qaraṣtūn wa al-mirʾāt (Về nguyên lý của cân đòn bẩy và gương)… Học giả của đế chế Ottoman Kâtip Çelebi đã miêu tả anh em Banū Mūsā với một công trình về thiết bị quân sự trong cuốn sách của mình, Kashf al-ẓunūn ʿan asāmī al-kutub wa-l-funūn (Khảo cứu quan điểm về tên sách và khoa học). Tuy nhiên, không có thông tin nào khác về sự tồn tại của văn bản này.

Al-Āla allatī tuzammir bi-nafsihā chỉ còn sót lại trong một phiên bản duy nhất từ thế kỷ thứ sáu/12. Dù nó mang tên Banū Mūsā nhưng thực ra ai là tác giả thì vẫn còn chưa rõ ràng. Tác phẩm này giới thiệu một nhạc cụ (āla) – một đàn ống thủy lực tự động – có thể chơi tự động vô số làn điệu, từ các nhịp điệu chậm (īqāʿ thaqīl) đến nhanh (īqāʿ khafīf). Cơ chế vận hành của nó dựa trên việc sử dụng những thay đổi tinh tế trong áp suất khí và nước rồi tích hợp với các bình hình nón như vật điều phối vận hành tự động. Thiết bị này hoạt động như sau: có một cái trống quay lớn với những cái chốt điều khiển các lỗ trên thân sáo qua các đòn bẩy nhỏ. Để tạo ra một luồng khí cần thiết đến sáo, nước được đổ đẩy trong một bình đựng, đẩy không khí thoát ra. Trong khi đó, một bánh xe nước khiến trống quay. Giai điệu mà nhạc cụ này phát ra là từ một bình trụ có bánh răng được sắp xếp để phù hợp với giai điệu, tương tự như việc sắp xếp của một cây đàn ống hiện đại kiểu Pháp. Những chiếc bánh răng này tiếp xúc với các đòn bẩy kiểm soát các khóa, qua đó có thể mở hoặc đóng các lỗ trên ống đàn. Cây đàn này không có nhiều ống mà chỉ sử dụng duy nhất một ống với nhiều lỗ, giống như sáo. Toàn bộ nhạc cụ này cao khoảng 150 cm, có thể được đặt bên trong một bức tượng. Thêm vào đó, văn bản cho biết có một số cải tiến nhỏ, nhạc cụ này có thể chơi đàn luýt (ʿūd). Công trình này không phải là một sáng chế riêng của người Ả Rập mà có gốc rễ từ Hy Lạp với sáo tự động, hay đàn psaltery (miʿzaf), thậm chí có thể đi kèm với hình ảnh và điệu múa. Nhạc cụ này không phải là một sáng chế riêng có của người Ả Rập mà có nguồn gốc từ sáo do Hero của Alexandria, Archimedes, Mūrisṭus, và Apollonius (người viết các tác phẩm được nghiên cứu và dịch sang tiếng Ả Rập) thiết kế.

Nhạc cụ này được thiết kế để có thể chơi một cách tự động, bắt chước chuyển động và hành động của người chơi sáo. Dù không có đề cập gì đến việc thiết kế trên thực tế và ứng dụng trong thực tiễn nhưng nó cũng cho thấy sự tự động hóa là để trình diễn cho xã hội thượng lưu. Thậm chí, tiềm năng đưa nhạc cụ này vào bên trong một cây sáo, đàn luýt hay đàn psaltery cũng như tích hợp vào trong một bức tượng nhảy múa cho thấy nó đã trở thành một trong vô số sự kiện chốn cung đình. Nếu từng được thiết kế, cũng có thể nó đã thu hút nhiều khán giả trong những buổi gặp gỡ và lễ chúc mừng chính thức, với sự tham gia của cả triều đình lẫn chức sắc nước ngoài. Văn bản đã giải thích rằng có thể kiểm soát dòng nước chảy để thay đổi các giai điệu. Với khán giả, dường như là có ai đó ra lệnh cho bức tượng thay đổi từ giai điệu này sang giai điệu khác và bức tượng có bổn phận phải phục tùng.  

Kitāb al-Ḥiyal, tác phẩm nổi tiếng nhất của anh em Banū Mūsā, không còn có dấu vết nào của tự động hóa âm nhạc, ngoại trừ một số thiết bị có thể cho phép tạo ra những dạng âm thanh khác nhau. Chuyên luận này đem đến một cái nhìn tổng quan về sự vận hành của một hệ thống với những cái bình khéo léo được dùng để phân phối chất lỏng và một số công cụ thực hành khác. Phần đáng chú ý trong văn bản này mô tả những chiếc bình được thiết kế một cách đặc biệt cho các buổi yến tiệc. Ví dụ một số thiết bị cho phép người rót lượng chất lỏng như mình mong muốn; có người còn làm khán giả choáng váng khi nói hỗn hợp rượu và nước từ chiếc bình trước mặt họ thực ra đã được phân tách ngay từ bên trong bình; hoặc cho phép rót nước và rượu từ cùng một vòi, sau đó có thể ưu tiên rót rượu trước rồi đến nước. Rất nhiều thiết bị như vậy thậm chí còn được ưa chuộng tại cung đình. Mục tiêu của chúng là để đem lại những khoảnh khắc vui vẻ trong những bữa yến tiệc, thông qua việc gây ngạc nhiên và thú vị cho người tham dự.

Kitāb al-Ḥiyal cũng chủ yếu đề cập đến vô số cỗ máy được chế tạo hơn là đào sâu vào các nguyên tắc cơ bản của cơ học, thủy tĩnh và khí lực hóa. 

Anh em Banū Mūsā cũng được biết đến với những nguyên lý toán học và khoa học như bằng chứng về việc họ là tác giả của nhiều công trình. Cách tiếp cận của Ahmad thể hiện sự quan tâm đến nội dung cụ thể mà không đề cập đến sự mở rộng lý thuyết là do sự lựa chọn của ông chứ không phải vì ông không hiểu biết, bởi mục tiêu chính của ông là đem lại những miêu tả chi tiết về thiết bị ông thiết kế, bất kể do chính ông thiết kế hay được một học trò của ông thiết kế theo tư vấn của ông.

Do thiếu bằng chứng, có ý tưởng cho rằng sáng chế của anh em Banū Mūsā có thể chỉ là những thí nghiệm tưởng tượng hoặc hiếm khi trở thành sản phẩm thực hơn là những sáng tạo thực tế về tự động hóa. Dù không phải mọi thiết bị được cuốn Kitāb al-Ḥiyal đề cập được hình thành nhưng có bằng chứng cho thấy sự tồn tại của automata do Banū Mūsā miêu tả trong những văn bản khác. Ví dụ sự hiện diện của cái bình rót rượu phù hợp với tiệc tùng cũng được cuốn sách của al-Mutanabbī đề cập đến, khi dành một số bài thơ ngắn giới thiệu một bữa tiệc của người bảo trợ mình, Badr b. ʿAmmār al-Kharshānī, người đứng đầu Tiberias, Syria, trong đó có đồng hồ trò chơi giống như một vũ công đứng trên một chân, dừng lại trước mặt một vị khách rồi sau đó rót rượu, ứng tác thơ. Dẫu có khác biệt với những gì được miêu tả trong Kitāb al-Ḥiyal, nhưng sự thật là miêu tả về automata của Banū Mūsā không chỉ là miêu tả lý thuyết mà nhiều thiết bị còn được tạo ra và được thưởng lãm trong môi trường cung đình. Một trong những người bảo trợ chính của Banū Mūsā, Caliph al-Mutawakkil còn được biết đến như một người say mê các thiết bị cơ học, qua đó cho thấy anh em họ có thể là những người sáng tạo chính – hoặc có liên quan đến các dự án thiết kế – các cỗ máy này.

Bất chấp thành công và danh tiếng, anh em Banū Mūsā vẫn gây nhiều tranh cãi. Họ cũng được biết đến với âm mưu chống lại đối thủ, bao gồm cả những người có danh tiếng trong lĩnh vực cơ học. Vô số tài liệu cũng ghi nhận hành động của họ chống lại nhà toán học, thiên văn học, kỹ sư Do Thái Sanad b. ʿAlī nhằm hất cẳng ông khỏi triều đình Baghdad và bôi nhọ ông trước al-Mutawakkil. Họ cũng sử dụng nhiều chiến thuật chống lại nhà triết học al-Kindī, vì ông khiến họ khó chịu khi được chọn làm gia sư cho cháu nội Aḥmad của al-Muʿtaṣim, người sau đó trở thành caliph al-Mustaʿīn (r. 248–52/862–6), thay vì chính họ. Banū Mūsā cũng làm mất thể diện của al-Kindī trong mắt al-Mutawakkil, khiến ông bị đòn roi và tước mất thư viện. Bộ sưu tập sách vở đầy giá trị này cuối cùng thuộc quyền sở hữu của anh em Banū Mūsā do niềm đam mê của al-Mutawakkil với tự động hóa. Tuy nhiên, Muḥammad và Aḥmad sau đó đã phải đối mặt với một tình huống sống còn khi đảm trách dự án đào kênh theo lệnh của al-Mutawakkil. Đối thủ của họ, Sanad b. ʿAlī, người từng bị họ tước sủng ái của al-Mutawakkil, đã được chính vị caliph này vời đến đánh giá dự án. Lúc này, Sanad b. ʿAlī đã can thiệp bằng việc bảo vệ họ khỏi tình trạng bị sỉ nhục vì chất lượng công trình, với điều kiện là họ phải đồng ý trả lại kho sách cho người chủ đích thực của nó.

Thābit b. Qurra

Thābit b. Qurra là một học giả Sabian nổi tiếng từ Ḥarrān, một thành phố ở Bắc Mesopotamia nổi tiếng về truyền thống chế tác, tập trung vào các dụng cụ đo độ cao thiên thể và cân. Dù công việc ban đầu là nghề đổi tiền nhưng Thābit đã được Muḥammad b. Mūsā chú ý đến do thông thạo nhiều ngôn ngữ Syriac, Ả Rập, Hy Lạp. Họ gặp nhau trong khi Muḥammad b. Mūsā trở về từ đế chế Byzantine, nơi ông tìm kiếm các bản thảo và Muḥammad đã mời Thābit gia nhập nhóm của mình ở Baghdad. Theo Ibn al-Nadīm và những người viết tiểu sử sau đó, khi họ về tới Baghdad, Muḥammad không chỉ cho Thābit sống tại tư dinh của mình mà còn đích thân hướng dẫn và thúc đẩy ông theo con đường khoa học, trong đó có cả cơ học. Trường hợp của Thābit nhấn mạnh vào tầm quan trọng của các hoạt động tương tác và giảng dạy truyền cảm hứng ở Baghdad trong thời kỳ đó, nhấn mạnh vào vai trò của anh em Banū Mūsā trong việc truyền thụ và phổ biến kiến thức cơ học. Thābit cũng là một người năng nổ trong nhóm khoa học của Banū Mūsā, và cũng dạy kèm con trai của Muḥammad. Ông sau này cũng kế tục Banū Mūsā như trưởng nhóm nghiên cứu và tự mình lập ra một “triều đại” khoa học, trong đó có cả con trai ông là Sinān b. Thābit, một người dành cả đời nghiên cứu thiên văn học và cơ học, cũng như cháu nội ông Ibrāhīm b. Sinān, một nhà toán học và thiên văn học. Muḥammad là người giới thiệu Thābit với triều đình al-Muʿtaḍid’s và các học giả của triều đình. Nhờ vậy, Thābit nhanh chóng có được vị thế trong triều đình.

Đóng góp học thuật của Thābit bao gồm cả việc dịch thuật các công trình tiếng Hy Lạp và nghiên cứu. Là một dịch giả, ông đã dịch vô số tác phẩm của Archimedes, The Sphere and the Cylinder (Quả cầu và hình trụ) cho phép Banū Mūsā theo đuổi công trình về hình học vi phân. Thêm vào đó, ông cũng tư vấn cho những dịch giả khác, như trường hợp Elements của Euclid và Almagest của Ptolemy.

Là một học giả, đóng góp của Thābit trải rộng ở nhiều lĩnh vực, bao gồm toán học, thiên văn học, khí tượng học, triết học tự nhiên và y học, khiến danh tiếng của ông được ghi nhận rộng rãi. Riêng về cơ học, lĩnh vực nghiên cứu được thực hiện dưới sự bảo trợ của Banū Mūsā. Ba nghiên cứu về cân đòn bẩy, Fī l-qarasṭūn (Về cân đòn), Kitāb al-Qarasṭūn (Sách về cân đòn), và Liber karastonis (Sách về cân đòn). Cuốn thứ ba là một phiên bản được chỉnh lý lại bởi Thābit of Kitāb al-Qarasṭūn, sau đó được học giả Ý Gerard of Cremona dịch sang tiếng Latin vào thế kỷ 12. Cùng chủ đề là cuốn sách Kitāb fī ṣifat al-wazn (Sách Mô tả trọng lượng) viết về cân đòn thăng bằng. Ngày nay người ta biết đến cuốn này là do nó được viết lại trong al-Khāzinī’s Kitāb Mīzān al-ḥikma (Sách về sự cân bằng của Minh triết). 

Quan tâm của Thābit vào chủ đề này còn trở nên dễ hiểu hơn khi nhìn vào mối liên hệ giữa ông và các học giả nhà Banū Mūsā, tuy nhiên hiểu biết của ông được mở rộng ra khỏi phạm vi đó. Ví dụ ông còn trao đổi thư từ với Sanad b. ʿAlī, trong phát triển sự cân bằng thủy tĩnh. Sự trao đổi ý tưởng và hiểu biết giữa Thābit, Banū Mūsā, và Sanad b. ʿAlī further đã làm sáng tỏ sự thăng hoa của Thābit về cơ học và lĩnh vực liên quan, qua đó củng cố di sản của ông trong lĩnh vực này.

Các tài liệu tiếng Ả Rập cũng đề cập đến hai chuyên luận về thiết bị cơ học, Ashkāl lahu fī l-ḥiyal (Thiết kế cho tự động hóa) và Kitāb fī ālat al-zamr (Về đàn ống/ống nhạc), chỉ dấu mối liên hệ gần gũi giữa các văn bản và sản phẩm khoa học của Banū Mūsā. Hai chuyên luận này được Hilāl b. Muḥassin b. Ibrāhīm al-Ṣābīʾ, con cháu nhà Thābit đề cập tới. Nó cũng làm sáng tỏ mối quan tâm của các học giả dưới trướng Banū Mūsā về thiết bị cơ học cũng như gắn kết của các học giả triều đại Abba với lĩnh vực này.

Kitāb fī ālat al-zamr cũng có mối quan hệ với Al-Āla allatī tuzammir bi-nafsihā, một bản sao chép còn sót lại trong thời kỳ thế kỷ thứ 6 / 12 được cho là của Banū Mūsā. Trước đây, người ta thường không chắc chắn về mối quan hệ giữa ba anh em này với tác phẩm bởi họ không có mối gắn kết với âm nhạc. Ngược lại Thābit thì có với một công trình về sáo, củng cố thêm quyền tác giả của ông với nhiều chuyên luận về lý thuyết âm nhạc, hòa âm như Maqāla fī l-mūsīqā (Thảo luận về âm nhạc). Các công trình Kitāb Ālat al-zamr al-būqī (Kèn Trumpet), Kitāb Ālat al-zamr al-rīhī (Sáo gió), Kitāb al-Urghanin (Đàn ống) có sau cuốn của Banū Mūsā, Kitāb al-Ḥiyal. TS. Alessia Zubani cho rằng, có thể là Thābit đã viết một chuyên luận về tự động hóa âm nhạc như chính anh em Banū Mūsā, ví dụ cuốn Al-Āla allatī tuzammir bi-nafsihā, trong khi chính Banū Mūsā đóng vai trò nhận xét. Trường hợp này cho thấy, môi trường học thuật phong phú xung quanh nhà Banū Mūsā cũng được hưởng lợi từ nghiên cứu cơ học, đặc biệt với các thiết bị tinh xảo.□

——-

Tài liệu tham khảo

“Masters of Mechanics: Exploring the Science of Ingenious Devices in the Abbasid Empire”,  Journal of Abbasid Studies

Bài đăng Tia Sáng số 4/2025

Tác giả

(Visited 96 times, 3 visits today)