Những nhà khoa học bị quên trong giải Nobel
Edouard Branly Nghiên cứu của Heinrich Rudolf Hertz (1847-1894) và Edouard Branly (1844- 1940) là nguồn gốc của công trình điện báo vô tuyến của Guglielmo Marchese Marconi (1874-1937). Ủy ban xét duyệt giải Nobel vật lý năm 1909 đã quên Edouard Branly mặc dù lần đầu tiên đường dây điện báo Morse được nối qua biển Manche giữa Wimereux và Douvres ngày 28 tháng 3 năm 1899 đã được ông Marconi xác nhận là có gửi lời trân trọng tới ông Branly bằng điện báo xuyên qua biển Manche. Kết quả tốt đẹp đó đáng lẽ một phần là công trình của ông Branly. Chú thích: E. Branly (người ngồi)
Năm 1923, Sir Frederick Grant Banting (1891-1941), người khám phá ra insuline, đã chia giải Nobel Y khoa với John McLeod. Trong khi đáng lẽ Charles Best mới là người xứng đáng chung giải với Frederic Banting. John McLeod chỉ là người đã chia cho ông một góc phòng thí nghiệm, một người phụ tá và các con vật thí nghiệm trong hai tháng hè, khi ông Banting ghé qua Scotland.
Tức giận vì người cộng sự gần nhất của ông là Charles Herbert Best không được cùng chia giải Nobel. Thật bất công. Ông đã chia phần của ông cho Charles Best. Sau đó Ủy ban xét duyệt Nobel nhận là có sai lầm nhưng họ không có cách nào sửa lại, vì những quyết định đã ra rồi không thể quay trở lại được.
Paul Portier
Những khó chịu hệt như trên là giải Nobel Y học cho Charles Richet, John Michael và Harold E. Varmus. Charles Richet được giải Nobel năm 1913 vì những công trình của ông về anaphylaxie (tính quá mẫn, phản vệ, allergie), và Paul Portier cũng nghiên cứu vấn đề này. Cả hai đều đưa ra công trình nghiên cứu của mình trước hội đồng Sinh vật học (1902): “Chúng tôi gọi “anaphylactique” (trái nghĩa với phylaxie) là đặc tính mà nọc độc có tư chất làm giảm đi thay vì làm tăng tính miễn nhiễm khi chất này được tiêm vô với liều lượng không nguy hiểm. Đó là (…) ngược lại sự bảo vệ”.
Richet tiếp tục nghiên cứu một mình hiện tượng anaphylaxie vừa tìm cách xác nhận sự khám phá chung của họ. Nhưng tiếc thay, Portier không những không được giải mà cũng chẳng được nêu tên trong bài diễn văn. Richet cũng chẳng chiếu cố đến người cộng tác của ông để sửa sai sự quên bất ngờ này.
Dominique Stehelin
Sự khám phá ra nguồn gốc tế bào tạo ra khối u hậu siêu vi trùng (origine cellulaire des oncogènes rétrovivaux) do John Bishop và Harold Varmus đã được giải Nobel về Y học năm 1989. Nhưng Dominique Stehelin mới chính là người khám phá đầu tiên khi ông chỉ mới làm thực tập hậu tiến sĩ năm 1976 tại phòng thí nghiệm của Bishop và Varmus tại Đại học California, San Francisco.
Không vừa ý vì bị loại, Dominique Stehelin viết một bức thư ngỏ cho Folke Sjoqvist, Chủ tịch hội đồng giải thưởng Nobel để yêu cầu xét lại quyết định. Để chấm dứt vụ này, Bishop vội vã xác nhận nhân cuộc hội thảo với báo chí: “Thời gian mà ông Stehelin làm việc trong phòng thí nghiệm của chúng tôi là có lợi cho ông ấy về sau, cũng như chính chúng tôi cũng đã hưởng được những đóng góp của ông ta cho công trình của chúng tôi. Chúng tôi vô cùng kính trọng ông trên tư cách một nhà khoa học và chúng tôi biết ơn những thí nghiệm của ông đã làm, đã thiết lập lần đầu tiên rằng những tế bào của khối u hậu siêu vi trùng là xuất phát từ những gene tế bào. Nhưng phải cần rất nhiều thí nghiệm khác để thiết lập một cách vững vàng mà chúng tôi đã chứng minh trong bài báo của chúng tôi” (báo Le Monde, 9/12/1989).
Theo giáo sư Alain Riou (Viện Gustave Roussy, Villejuif): Từ lúc Nobel cho giải cho công trình từ năm 1976 thì Stehelin phải là người đứng chung giải Nobel. Để chấm dứt cuộc luận chiến, giáo sư Jean Lindstein, thư ký hội đồng giải Nobel Y học, nhắc lại với báo chí là những người được giải Nobel được chọn lựa trong số các thí sinh được đề nghị bởi hội khoa học thế giới, chiếu đúng theo điều lệ của hội đồng Nobel. Vậy không thể quy trách nhiệm cho ông chủ tịch.
Lise Meitner
Lise Meitner hướng dẫn dự án về uranium và sự phân rã các hạt nhân nặng ở Berlin trong 4 năm. Chiến tranh thế giới thứ 2, sự ngược đãi tàn nhẫn đối với các cộng đồng Do Thái khiến bà phải tị nạn ở Stockholm, nơi đây bà vẫn tiếp tục công trình nghiên cứu của bạn bà là Otto Hahn.
Để tránh nguy hiểm, bà không ký tên lên bài tiểu luận báo tin đã khám phá chất baryum, chất căn bản cho phản ứng hạch tâm dây chuyền. Mọi người tiếc vì công của bà đã không được công nhận chính thức từ khi hết chiến tranh.
Theo Vietsciences