Nông nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Dường như nhiều năm qua, chưa có chiến lược và kế hoạch nào của Việt Nam đủ khả thi để phát triển một nền nông nghiệp ngang tầm thời đại.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Việt Nam là đất nước nông nghiệp, nhưng đang tồn tại nhiều nghịch lý trong lĩnh vực này: Việt Nam dẫn đầu thế giới về sản lượng một loạt nông sản xuất khẩu toàn cầu như thứ ba về xuất khẩu gạo, thứ hai về xuất khẩu cà phê, hồ tiêu, hạt điều, thứ tư về xuất khẩu thủy sản, nhưng khoảng 80% là xuất khẩu thô, ở phân khúc giá thấp. Nông dân lao động cần cù, sáng dạ, lại đang là tầng lớp nghèo và thiệt thòi nhất trong xã hội1 Ngành nông nghiệp chiếm khoảng 11% GDP nhưng lại chiếm tới 26% lực lượng lao động, thể hiện năng suất lao động nông nghiệp rất thấp. Lực lượng lao động nông nghiệp đông đảo nhưng trình độ thấp, hơn 70% chưa qua đào tạo chuyên môn, khó tiếp cận công nghệ nông nghiệp tiên tiến. Năng lực của các nhà khoa học nông nghiệp chưa được phát huy do cơ chế quản lý còn nhiều bất cập2

Hình như nhiều năm qua, chưa có chiến lược và kế hoạch nào của Việt Nam đủ khả thi để phát triển một nền nông nghiệp ngang tầm thời đại. Các ngôn từ thời thượng như nông nghiệp chính xác, thông minh, công nghệ cao, tuần hoàn, sinh thái… mới tồn tại rổn rảng trên giấy và trong các bài diễn văn nhiều hơn là trên thực tế. Những tồn tại và nghịch lý trên cho thấy bức tranh thật, không mấy vui về nền nông nghiệp Việt Nam: Việt Nam là cường quốc xuất khẩu nông sản thô chứ không phải là cường quốc về thương hiệu nông sản. Nông nghiệp Việt Nam đang là nền nông nghiệp số lượng chứ chưa phải chất lượng. Bởi vậy, ta đổ rất nhiều mồ hôi nhưng thu về rất ít. Nông nghiệp Việt Nam đang làm thuê trong hệ sinh thái của người khác, không có quyền định giá trong chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng; nên tất yếu là, chúng ta không có lợi nhuận tương xứng, chịu thua thiệt, “khô áo ráo tiền”. 

Thay đổi tư duy về làm nông nghiệp

Dường như chúng ta chưa dám có “Giấc mơ lớn” nên thiếu Khát vọng lớn để sớm có được tầm nhìn chiến lược và kế hoạch khả thi cho sự phát triển một nền nông nghiệp hiện đại. Công bằng mà nói, ngành nông nghiệp còn chưa được quan tâm đúng mức. Tỷ lệ đầu tư công vào nông nghiệp rất thấp, chưa tương xứng với đóng góp của ngành nông nghiệp vào nền kinh tế quốc dân, ít khi vượt quá 5% tổng vốn đầu tư. Trong danh mục 11 nhóm công nghệ chiến lược, không nhiều lĩnh vực trong số đó hướng tới phát triển nông nghiệp, mà có lẽ là hướng tới các mục tiêu khác. Bản Dự thảo Nghị định qui định chính sách học bổng cho người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt và công nghệ chiến lược, dễ làm cho người ta có suy nghĩ là, hình như người học thuộc khối ngành Nông lâm ngư không có hạnh phúc và may mắn được hưởng chính sách hỗ trợ đặc biệt này; Vậy, liệu có phải khoa học và kĩ thuật nông nghiệp, công nghệ nông nghiệp chưa được coi là “cơ bản”, là  “then chốt”, là “chiến lược” của đất nước này? 

Việt Nam đứng thứ tư về xuất khẩu thủy sản, nhưng chủ yếu là xuất khẩu ở phân khúc giá thấp.

Không chỉ vốn nhà nước, vốn trong xã hội cũng hầu như không “rót” vào nông nghiệp, nguồn vốn to lớn này hoặc “chảy” vào đất đai, bất động sản, vàng, ngoại tệ hoặc nằm im chờ thời trong túi dân. Lợi nhuận thu được từ biến động giá cả về đất đai, vàng và ngoại tệ thực ra không tạo ra bất kỳ sản phẩm gia tăng nào cho xã hội, vẫn chỉ là miếng đất ấy, ngôi nhà ấy, thỏi vàng ấy. Nhà nước đáng lẽ phải thay đổi đầu tư công cho lĩnh vực nông nghiệp công bằng hơn, đồng thời có chính sách phù hợp để tiền bạc, của nả trong dân “đổ” vào nông nghiệp. 

Nông nghiệp ít được đầu tư, có lẽ vì xuất phát điểm về nông nghiệp nói riêng, về nền kinh tế của chúng ta nói chung, rất thấp; có được miếng ăn đã là hạnh phúc, rồi khi đã lo được hạt thóc củ khoai, thì xuất khẩu thô mang về ngoại tệ cho đất nước đã là tự hào. Thêm nữa, nhìn vào các nước phát triển, chúng ta chỉ thấy công nghiệp và dịch vụ nên cho rằng cần phải lấy đó làm “mũi nhọn”. Trước đây chúng ta chủ trương phát triển công nghiệp nặng, rồi đến công nghiệp tàu thủy, bây giờ thì là chip bán dẫn, AI, công nghệ chuỗi khối… Ta cho rằng, làm nông nghiệp thì không thể giàu. 

Thực tiễn từ các quốc gia có nền nông nghiệp phát triển cho thấy, làm nông nghiệp không nghèo. Nếu đủ năng lực tham gia đầy đủ và giữ vai trò định đoạt ‘thân phận’, dẫn dắt chuỗi giá trị nông sản quốc gia và chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, nông nghiệp là ngành có thể làm giàu. Nông nghiệp còn là một ngành công nghiệp, thậm chí không phải là một ngành công nghiệp bình thường, mà là ngành công nghiệp công nghệ cao (Hi-Tech Agro-Industry). Đó là nơi hiện hữu các thành tựu mới nhất của thời đại công nghiệp lần thứ tư, tài chính hóa mạnh mẽ, số hóa toàn bộ các quá trình, sản phẩm tạo ra theo tiêu chuẩn toàn cầu. Bởi thế nên, một hecta đất canh tác của Hà Lan có thể tạo ra từ 100.000 đến hàng triệu đôla giá trị một năm, trong khi ở Việt Nam bình quân mới chỉ vài chục triệu đồng, tuy đã có mô hình tạo ra giá trị cả tỷ đồng/năm, nhưng mới chỉ ở quy mô rất nhỏ và rất khó nhân rộng. Khác nhau một trời một vực như vậy không phải vì đất ta xấu, không phải vì người ta không giỏi mà là vì tư duy chiến lược và cách tổ chức khác nhau. Nhà nước, người dân và doanh nghiệp có coi nông nghiệp là ngành công nghiệp công nghệ cao không? 


Cần phải chuyển tám triệu hộ nông dân nhỏ lẻ thành các chủ trang trại, có khả năng kết nối với chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, thành các “thanh nông tri điền” của thời đại 4.0, từ đó chuyên nghiệp hóa sản xuất.

Nếu Nông nghiệp chỉ là cây là con dựa vào “ơn Trời”, thì Nông nghiệp là làng quê, là ruộng đồng của trăm năm trước, của ngàn năm trước, chỉ thay đổi ít nhiều do khí hậu đã thay đổi, do công cụ lao động và phương thức sản xuất đã thay đổi. Nếu Nông nghiệp là chế biến và chế biến sâu nông sản, nông nghiệp trở thành một ngành công nghiệp (Agro-industry). Nếu Nông nghiệp là dược liệu, là thuốc chữa bệnh, là thực phẩm chức năng, là tăng cường sức khỏe con người, thì nông nghiệp sẽ tạo ra không gian làm giàu gần như vô hạn. Nếu coi Nông nghiệp là du lịch, là phong cách sống, góp phần hoàn thiện nhân cách con người, là hòa thuận và tôn kính Mẹ thiên nhiên, thì nông nghiệp là một phần tất yếu của đời sống văn minh, gắn kết với những giá trị tinh thần nền tảng.
Không thể để kéo dài mãi thực trạng các nông sản có thế mạnh của Việt Nam như cà phê, cá tra, tiêu…  chỉ là nguyên liệu cho thương hiệu nước ngoài. Phải có chiến lược dài hạn để xây dựng thương hiệu quốc gia như hoa quả, thịt bò Nhật Bản, cá hồi Na Uy, pho mai Pháp, vang Ý, socola Bỉ, cà phê Thụy Sĩ… Lưu ý là 1kg cà phê nhân của Việt Nam giá 1,5USD trong khi giá 1g cà phê bột của Thụy Sĩ giá 25 USD; 1 kg cá tra phi lê của Việt Nam có giá 30-50 nghìn đồng, giá 1 kg cá hồi Na Uy giá 600-700 nghìn đồng, luôn xuất hiện trong các khách sạn 5 sao, trong các bữa tiệc sang trọng hay trong bữa ăn hằng ngày của giới thượng lưu.

Có lẽ cũng nên nêu qua hai nghị quyết thuộc “bộ tứ trụ cột” là (i) Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; có lẽ đã đến lúc chúng ta nghĩ về việc xác lập và phát triển nền “ngoại giao nông nghiệp”, đã có rất nhiều bài học về việc này, ngoại giao nông nghiệp sẽ hỗ trợ cho việc nâng cao sức mạnh của Việt Nam trên trường quốc tế trong các hợp tác song phương và đa phương. Chúng ta đã nghe nhiều về chiến tranh đậu tương, chiến tranh mía đường; và hãy rút ra từ đại họa Covid 19 và khủng hoảng lúa gạo hiện nay của Nhật Bản những bài học cần thiết; (ii) Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, chúng ta cần một hệ thống pháp luật đồng bộ, đảm bảo trên dưới một lòng, dọc ngang thông suốt, tạo điều kiện tối đa cho phát triển nền nông nghiệp Việt Nam hiện đại và hội nhập; trong đó trước hết cần hệ thống chính sách đồng bộ về thu hút đầu tư đủ tầm, tập trung cho các ngành hàng nông sản chủ lực, chính sách chiêu hiền đãi sĩ (thực tâm) để thu hút những người giỏi, người tài, coi đó là chính sách cốt lõi cho phát triển nông nghiệp. 

Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ trong nông nghiệp

Phát triển AI, Internet vạn vật, chuỗi khối,…có đúng không? Vẫn rất đúng, rất cần. Nhưng xét cho cùng, phát triển các công nghệ thời 4.0 ấy còn cần phải làm sao để có thể phục vụ nông nghiệp, để nền nông nghiệp Việt Nam mang lại nhiều tiền của, vị thế và uy tín cho đất nước như nền nông nghiệp của Mỹ, Hà Lan, Úc, Israel đã làm được. Nghị quyết 57 về Khoa học, công nghệ, Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số được ban hành gần đây, có lẽ đã lấy cảm hứng từ Khoán 10 – là cơ hội để đẩy mạnh điều này. Chẳng hạn, các nền tảng số có thể kết nối trực tiếp với thị trường quốc tế; AI, dữ liệu lớn có thể giúp tối ưu vận hành chuỗi cung ứng, giúp người nông dân có thể kết nối trực tiếp với khách hàng mà không cần qua khâu trung gian. Xét cho cùng, “canh nông” là “vi bản”, là lợi thế so sánh, là tiềm năng, là thế mạnh của Việt Nam. Phát triển những lĩnh vực lớn lao mang tính thời đại đó là quan trọng, nhưng không nên quên cái gốc của mình. Nếu đưa được nền nông nghiệp nước nhà ra ‘mặt tiền’ của chuỗi giá trị toàn cầu về nông sản hàng hóa, thì những công nghệ và các sản phẩm make in Vietnam, made by Vietnamese cũng có cơ hội khẳng định vị trí Việt Nam trên thị trường thế giới. 

Sinh viên trong giờ thực hành ở Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: Thiều Trang/Lao Động.

Bên cạnh những công nghệ thời thượng như AI, internet vạn vật, chuỗi khối…, các công nghệ truyền thống như các công nghệ chế biến, bảo quản và logistics lạnh cũng rất quan trọng. Đây là tiền đề để Việt Nam hình thành các trung tâm hậu cần nông sản quốc gia để giữ chất lượng và đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế của nông sản, tăng tỉ lệ nông sản chế biến sâu, có nhãn mác, có thương hiệu. 

Để đẩy nhanh các nghiên cứu vào thực tiễn, Việt Nam cần tạo môi trường thuận lợi cho các startup công nghệ nông nghiệp, thực phẩm (Agritech, Foodtech) phát triển. Một trong những ứng dụng quan trọng trước mắt là đẩy mạnh công nghệ truy xuất và minh bạch nguồn gốc thực phẩm. Tiếp đó, cần xây dựng các hệ sinh thái đổi mới sáng tạo nông nghiệp kết hợp giữa AgriTech, FoodTech, FinTech để kết nối các thành phần trong chuỗi giá trị, từ nghiên cứu, sản xuất đến phân phối và tiêu thụ, tạo ra một môi trường mở để thử nghiệm và nhân rộng các giải pháp công nghệ mới. 

Quan trọng hơn cả, để có thể vận dụng những công nghệ mới, Việt Nam cần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao theo tinh thần Nghị quyết 71 – NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, để đến một ngày Việt Nam xuất khẩu công nghệ, xuất khẩu chuyên gia như bây giờ chúng ta đang xuất khẩu lao động giản đơn; nhưng không được quên đào tạo nông dân, nếu không  muốn nói là cần đặc biệt quan tâm đến nông dân. Với nông dân, ngôn từ hay được dùng trong thời gian gần đây là “tri thức hóa nông dân” để người nông dân có thể tự giải quyết được các ‘câu chuyện’ của họ. Đó là sử dụng máy móc, thiết bị công nghệ mới tiên tiến; là điện tử hóa, tự động hóa, số hóa quá trình quản lý, sản xuất, lưu thông và thương mại. Cần phải chuyển tám triệu hộ nông dân nhỏ lẻ thành các chủ trang trại, có khả năng kết nối với chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, thành các “thanh nông tri điền” của thời đại 4.0, từ đó chuyên nghiệp hóa sản xuất. Làm nông nghiệp cũng là một nghề cần được đào tạo bài bản, cần có kiến thức và kĩ năng về nhiều lĩnh vực – từ khoa học công nghệ tới thị trường, nghề nông cũng cao quý và sang trọng, cũng là nghề “thời thượng” như các ngành nghề khác trong xã hội. “Tri thức hóa” cán bộ nhà nước phải đi trước một bước để thay đổi tư duy, nhận thức của họ về phát triển nông nghiệp, từ đó có chính sách đúng, đủ và trúng; để có đầu tư xứng tầm cho phát triển nông nghiệp, coi trọng sản xuất nông nghiệp như các ngành nghề khác trong xã hội.

Để tư nhân dẫn dắt ngành nông nghiệp Việt 

Kinh tế tư nhân với sự năng động, sáng tạo và khả năng thích ứng cao, đã và đang đầu tư mạnh mẽ vào nông nghiệp ở tất cả các khâu của chuỗi giá trị nông sản từ sản xuất, chế biến, bảo quản, chế biến đến xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ cao, sản xuất nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp thông minh. Khu vực này cũng có tốc độ thương mại hóa nghiên cứu nhanh hơn, linh hoạt hơn, thực tế hơn, hiệu quả hơn khu vực nhà nước. Chẳng hạn doanh nghiệp tư nhân Hồ Quang của Anh hùng Lao động Hồ Quang Cua đã tạo ra hạt gạo đứng hàng ngon nhất thế giới, dù không hề có sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước; Tập đoàn TH True Milk nhập công nghệ giống bò cao sản từ New Zealand, xây dựng hệ thống quản lý chuồng trại bằng AI hay Tập đoàn Dabaco, Anova… đầu tư phòng lab hiện đại chọn tạo giống chịu hạn, sâu bệnh; TTC AgriS đi đầu trong số hóa toàn bộ quá trình sản xuất và quản trị hệ thống, là những ví dụ rất thuyết phục. 


Cần quyết tâm cao của chính phủ trong việc chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp.

Doanh nghiệp tư nhân là những người nhận ra sớm nhất tiềm năng, lợi thế và lợi nhuận từ nông nghiệp thông minh, bền vững và có thương hiệu. Họ góp phần tăng giá trị gia tăng cho nông sản Việt Nam thông qua chế biến sâu, xây dựng thương hiệu, mở rộng thị trường. Họ chủ động tìm kiếm đối tác, đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường quốc tế, đóng vai trò đầu tàu trong xuất khẩu nông sản. Ngày càng nhiều các mô hình nông nghiệp hữu cơ (Vinamit, Tâm Thảo, Biogreen…) đã đạt được các chứng nhận nghiêm ngặt như USDA Organic, EU Organic, Global GAP.  Con số 62,5 tỷ USD do xuất khẩu nông sản năm ngoái mang lại, chủ yếu là công của doanh nghiệp tư nhân. Trong một trao đổi riêng với nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Cao Đức Phát của tác giả, với sản phẩm xuất khẩu, người nông dân được hưởng tới 70% giá trị, cao hơn nhiều so với các ngành nghề khác. 

Có thể nói, doanh nghiệp Việt sẽ là lực lượng tiên phong trong công cuộc tái cơ cấu lại nông nghiệp Việt Nam, chuyển vị trí từ nền nông nghiệp làm thuê sang làm chủ sân chơi quốc tế. Họ sẽ định hình lại chuỗi giá trị nông sản Việt Nam theo hướng bền vững thông qua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tạo ra những nông trại thông minh, hệ thống quản lý kho, logistics lạnh, nền tảng thương mại điện tử dành cho nông nghiệp, hệ thống quản lý chuỗi cung ứng số, truy xuất nguồn gốc bằng công nghệ để quản lý toàn bộ chuỗi giá trị từ sản xuất đến phân phối. Nhưng để làm được như vậy, cần quyết tâm cao của chính phủ trong việc: chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp; khuyến khích các doanh nghiệp chủ chuỗi phá bỏ manh mún, nhỏ lẻ, vừa là lực kéo, vừa là lực đẩy để hình thành và phát triển các vùng nguyên liệu có quy mô đủ lớn, đủ mạnh về hạ tầng, logistics, và chế biến đồng bộ. Nhà nước cũng có thể thúc đẩy phát triển hợp tác xã kiểu mới, nơi nông dân giữ quyền sở hữu đất nhưng tham gia chuỗi giá trị theo hợp đồng chuẩn, được hỗ trợ vốn, giống, kĩ thuật, công nghệ và đầu ra. 

Để trao quyền cho doanh nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp, nhà nước còn cần phải cho phép tích tụ ruộng đất quy mô lớn để sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Đồng thời, Việt Nam cũng phải mở rộng quyền chuyển nhượng, thế chấp và góp vốn bằng quyền sử dụng đất, bảo vệ quyền lợi người yếu thế, giải phóng nguồn lực và thu hút đầu tư dài hạn. Dù có thể làm giàu bằng nông nghiệp, nhưng đầu tư vào lĩnh vực này cần dài hạn, bền vững, không nôn nóng vì lợi nhuận trước mắt. Bởi vậy cần tạo hành lang pháp lý cho nông nghiệp tài chính hóa, phát triển bảo hiểm nông nghiệp, có cơ chế chia sẻ rủi ro giữa nhà nước, doanh nghiệp, nông dân, cơ quan nghiên cứu, quỹ tín dụng nông thôn, trái phiếu nông nghiệp, thị trường giao dịch nông sản để dòng tiền chảy “bài bản” vào nông nghiệp. 

Để kết thúc bài này, xin được nhắc lại Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam ngày 11-4-1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ở đó Người đã khẳng định chân lý phát triển vĩnh hằng của đất nước này “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”.□

——–

Chú thích

1 https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/nghi-quyet-ve-nong-nghiep-nong-dan-nong-thon-va-vi-the-cua-nguoi-nong-dan

2 https://nongnghiepmoitruong.vn/khoa-hoc-giai-quyet-van-de-lon-cua-dat-nuoc-chu-khong-phai-noi-dung-dang-dung-de-d238829.html

Bài đăng Tia Sáng số 17/2025

Tác giả

(Visited 11 times, 11 visits today)