Đầu tư cho viện/trường: Những hạn chế đáng tiếc

Bên cạnh những ưu điểm lớn, mô hình Nhà nước đầu tư tập trung cho các viện nghiên cứu, trường đại học mua sắm thiết bị hiện đại cũng đang bộc lộ một số hạn chế như thiết bị không hoạt động đúng như thiết kế ban đầu, thiếu kinh phí bảo dưỡng, và chưa phát huy hết hiệu suất sử dụng do thiếu mối liên kết với doanh nghiệp và thiếu các đơn đặt hàng dài hạn.

Với mục tiêu nâng cao chất lượng nghiên cứu, tạo ra và đưa nhanh các thành tựu khoa học, tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay, Nhà nước đã đầu tư một lượng kinh phí lớn xây dựng một số viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm trọng điểm, và phòng thí nghiệm tại nhiều viện nghiên cứu và trường đại học.

Việc đầu tư cho các viện nghiên cứu mặc dù được tiến hành theo một số cách tiếp cận khác nhau tuy nhiên mô hình chủ đạo là Nhà nước đầu tư tập trung cho các cơ sở mua sắm các trang thiết bị nghiên cứu theo định hướng phát triển một ngành, một lĩnh vực nghiên cứu cụ thể. Ưu điểm của mô hình này là với suất đầu tư lớn, các viện nghiên cứu có thể hoàn thiện cơ sở hạ tầng, trang thiết bị nghiên cứu trong một thời gian ngắn; và các thiết bị nghiên cứu được đầu tư mới hiện đại tương đương với khu vực và thế giới và hệ thống thiết bị đầu tư khá đồng bộ. Cho đến nay, nhiều viện nghiên cứu/phòng thí nghiệm với cơ sở trang thiết bị nghiên cứu hiện đại đã được hình thành và bước đầu vận hành hiệu quả giúp nâng cao năng lực nghiên cứu, đồng thời hỗ trợ công tác đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao trong nước. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, mô hình đầu tư xây dựng này đã bộc lộ một số hạn chế mà nếu được khắc phục kịp thời sẽ giúp làm tăng hiệu quả đầu tư, cũng như khả năng vận hành của các viện nghiên cứu.

Không hoạt động đúng như thiết kế ban đầu

Vấn đề đầu tiên, đó là việc thiết kế tổng thể và xây dựng lộ trình đầu tư của các dự án xây dựng phòng thí nghiệm/viện nghiên cứu. Trong điều kiện lực lượng cán bộ nghiên cứu còn khiêm tốn về số lượng, và còn ít kinh nghiệm về tổ chức quản lý các phòng thí nghiệm tập trung cũng như vận hành các thiết bị công nghệ cao, luôn có một xác suất đáng kể các thiết bị được đầu tư hoạt động không đúng như thiết kế ban đầu, hoặc không đủ điều kiện vận hành. Việc xây dựng được một thiết kế tổng thể và một lộ trình đầu tư phù hợp, có tương quan hợp lý giữa lực lượng cán bộ và số lượng trang thiết bị được đầu tư sẽ là điều kiện đảm bảo cho việc tiếp nhận và đưa các thiết bị được đầu tư vào hoạt động một cách hiệu quả. Ngoài ra, việc tìm được những người đứng đầu có kinh nghiệm, có tri thức khoa học và am hiểu sâu sắc về lĩnh vực được đầu tư phát triển, và có thể đảm bảo thời gian làm việc xuyên suốt thời gian đầu tư của dự án cũng là một yếu tố quan trọng cho sự thành công.

Thiếu kinh phí bảo dưỡng

Một vấn đề khác mà nhiều viện nghiên cứu đã gặp phải chính là việc đảm bảo hoạt động cho phòng thí nghiệm và các thiết bị nghiên cứu hiện đại được đầu tư ngay trong quá trình và sau khi kết thúc dự án. Trong mô hình hiện nay, kinh phí đầu tư từ ngân sách Nhà nước (NSNN) chỉ được sử dụng cho việc mua thiết bị nghiên cứu, trong khi kinh phí cho việc đảm bảo hoạt động thiết bị sẽ do đơn vị được đầu tư đối ứng. Về lý thuyết, mô hình này sẽ giúp nâng cao tính tự chủ, và trách nhiệm của đơn vị được đầu tư trong việc đảm bảo hoạt động và vận hành khai thác hiệu quả thiết bị được đầu tư. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rất nhiều các thiết bị nghiên cứu công nghệ cao có giá thành lên đến hàng chục tỷ đồng, đòi hỏi không chỉ điều kiện vận hành ngặt nghèo, mà còn cần chi phí vận hành hằng năm lên đến nhiều tỷ đồng. Hợp đồng bảo dưỡng định kỳ và thay thế phụ kiện đối với các thiết bị này, cũng có thể lên tới hàng chục nghìn USD/năm cho các hợp đồng kéo dài 3-5 năm (sau thời gian bảo hành). Yêu cầu kinh phí như trên là rất lớn và ngoài khả năng đáp ứng của hầu hết các viện nghiên cứu, cũng như rất lớn so với kinh phí nghiên cứu của các đề tài nghiên cứu được cấp từ NSNN. Do đó, để tránh lãng phí do các thiết bị không thể vận hành vì thiếu kinh phí và nâng cao hiệu quả hoạt động của các phòng thí nghiệm/viện nghiên cứu đầu tư tập trung và trọng điểm, những chính sách hỗ trợ cụ thể theo một lộ trình thời gian dài hạn (5-10 năm) của Nhà nước là hết sức cần thiết trước khi các đơn vị này có thể tự vận hành bằng kinh phí thu được từ các hoạt động nghiên cứu theo hợp đồng, hay dịch vụ nghiên cứu. Đây cũng là chính sách hiện đang được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới đối với các trung tâm/viện nghiên cứu tập trung nhằm đảm bảo cơ sở hạ tầng hỗ trợ nghiên cứu phát triển công nghệ mới (ví dụ mô hình MESA + Institute for Nanotechnology – Hà Lan; National NanoFab Center –Hàn Quốc).

Chưa phát huy hết hiệu suất sử dụng

Trong giai đoạn vừa qua, đa số các phòng thí nghiệm/viện nghiên cứu được đầu tư nằm ở các viện nghiên cứu, trường đại học – các cơ sở mạnh về nghiên cứu cơ bản, và đây được xem là bước đi cần thiết nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ, chất lượng và năng lực nghiên cứu của các đơn vị nghiên cứu trong nước. Tuy nhiên, để có thể phát triển được các công nghệ ứng dụng, giải quyết bài toán sản phẩm ở quy mô công nghiệp, có giá trị gia tăng, và cạnh tranh quốc gia cao trong giai đoạn sắp tới, Nhà nước cần chú trọng đầu tư xây dựng các viện/trung tâm nghiên cứu có tính mục tiêu sản phẩm và có sự gắn kết với các tập đoàn, công ty công nghiệp lớn. Việc thành lập các viện nghiên cứu này phải đảm bảo hội tụ nhu cầu của cả hai phía (viện/trường và công ty/tập đoàn công nghiệp) và nguồn vốn đầu tư và phát triển phải đến từ nhiều phía, bao gồm đóng góp của các tập đoàn/công ty (chủ yếu), hỗ trợ của Nhà nước và vốn đối ứng của chính bản thân các viện/trường.

Đối với các viện nghiên cứu/phòng thí nghiệm đầu tư tập trung, trọng điểm, các phòng thí nghiệm hoạt động theo phương thức mở cung cấp cơ sở hạ tầng phục vụ nghiên cứu (R&D), hiệu quả và hiệu suất sử dụng các trang thiết bị được đầu tư phụ thuộc vào số lượng các dự án, đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu (của các cán bộ trong và ngoài đơn vị) thực hiện tại các cơ sở này, cũng như số lượng đơn đặt hàng, số lượng các hợp đồng chuyển giao công nghệ với các doanh nghiệp/công ty/tập đoàn kinh tế. Cho đến nay, do chính sách kinh phí ngắn hạn, hầu hết các nhiệm vụ nghiên cứu chỉ kéo dài hai-ba năm, các nhiệm vụ nghiên cứu còn mang nhiều tính đơn lẻ, giải quyết những vấn đề nhỏ, cụ thể mà chưa được định hướng tập trung để giải quyết những bài toán lớn đi từ nghiên cứu phát triển công nghệ đến sản phẩm cuối cùng. Chính vì vậy, trong chiến lược phát triển KH&CN dài hạn, cần gắn việc thành lập các viện nghiên cứu với định hướng hỗ trợ phát triển công nghệ và nhân lực trình độ cao cho một ngành công nghiệp, một lĩnh vực cụ thể (với sự đóng góp tài chính của chính những đơn vị này). Việc xây dựng các chương trình nghiên cứu dài hạn, các dự án nghiên cứu trọng điểm (5, 7, 9 năm) nhằm tập trung nhân lực giải quyết những bài toán khoa học lớn, nghiên cứu phát triển công nghệ gốc, và tạo ra các sản phẩm mới, sản phẩm quy mô quốc gia do đó cũng là hết sức cần thiết.

—————–

* Viện trưởng Viện Tiên tiến KH&CN (AIST), ĐH Bách khoa Hà Nội

Tác giả

(Visited 3 times, 1 visits today)