“Xã hội hậu khoa học” và những gợi suy cho Việt Nam
“Nếu như nước Mỹ ở vào thời kỳ giữa những năm 1950 và 2000 được đặc trưng bởi một xã hội khoa học” thì “kể từ những năm đầu thế kỷ 21 với những cơ hội và thách thức mới mang tính cách mạng đang xuất hiện và đặt ra, nước Mỹ đã đứng trước ngưỡng cửa của một kỷ nguyên phát triển xã hội mới – xã hội hậu khoa học (post science society)”. Câu hỏi có thể đặt ra ở đây là: những gì đang diễn ra ở Mỹ, được nhìn nhận bởi một học giả Mỹ liệu có quá xa vời với những vấn đề phát triển khoa học của một nước đang phát triển như Việt Nam, nơi mà nền khoa học non trẻ chỉ mới có vài chục năm hình thành và phát triển trong lòng một xã hội Á đông cổ truyền vốn không có truyền thống làm khoa học?
Cách nhìn mới này có thể gợi ra đựợc những vấn đề gì cho định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) Việt Nam trong thời gian tới? Người viết bài này đã đưa ra câu hỏi như vậy với GG. Christopher T. Hill khi trực tiếp được nghe ông thuyết trình về khái niệm “xã hội hậu khoa học” tại Viện Chính sách KH&CN quốc gia ở Tokyô, Nhật Bản một năm trước đây.
Xã hội khoa học
Theo GS. Christopher T.Hill, “xã hội khoa học” được đặc trưng bởi môi trường xã hội Mỹ vào cuối những năm 1950 và đầu 1960 khi mà nghiên cứu khoa học và kỹ thuật đã trở thành xu thế và trào lưu lựa chọn nghề nghiệp số một của thanh niên Mỹ lúc bấy giờ. Hiện tượng xã hội này có liên quan một phần đến vụ thử vũ khí nguyên tử, bom khinh khí và vụ phóng vệ tinh Sputnik của Liên Xô giữa những năm 1950. Nhưng từ trước đó, ngay sau khi Thế chiến thứ Hai kết thúc, Ủy ban tư vấn của Tổng thống Mỹ do Vannevar Bush làm Chủ tịch đã đưa ra bản Báo cáo nổi tiếng “Biên giới vô cùng của Khoa học”. Báo cáo này đã hậu thuẫn đắc lực cho Chính phủ Liên bang duy trì chính sách tài trợ cho nghiên cứu của các trường đại học, đầu tư xây dựng nhiều phòng thí nghiệm hiện đại nhằm giải quyết các vấn đề trong quân sự, y tế và xã hội xuất phát từ kinh nghiệm lịch sử trước đó của Mỹ cho rằng: những khoản kinh phí hỗ trợ hào phóng của Chính phủ cho các nghiên cứu cơ bản trong khoa học sẽ mang lại những lợi ích to lớn cho đất nước.
Nước Mỹ đã xuất hiện như cường quốc thế giới về công nghiệp vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 chính là nhờ vào các nghiên cứu khoa học và sáng chế công nghệ mà các công ty chế tạo hàng đầu lúc đó như AT&T, General Electric, DuPont và General Motors đã thử nghiệm và đưa vào sản xuất. Hầu hết các công ty này đều đã xây dựng các phòng, ban nghiên cứu R&D chuyên môn ở công ty mình theo gương của Thomas Edison người đã xây dựng cả một “Nhà máy sáng chế” ở Menlo Park, Bang New Jersy từ năm 1876.
Vị thế cường quốc của Mỹ về công nghiệp đã thúc đẩy Chính phủ dành những khoản đầu tư lớn từ Liên bang để xây dựng các phòng thí nghiệm khổng lồ và tài trợ cho nghiên cứu cơ bản ở các trường đại học. Cho đến sau Chiến tranh thế giới thứ Hai và 2 thập kỷ sau đó, hầu như tất cả các công ty lớn và nhiều công ty nhỏ đã đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm riêng biệt, được bố trí cách xa cơ sở sản xuất và các trung tâm tiêu thụ sản phẩm. Các phòng thí nghiệm này đều được thiết kế giống như khuôn viên Đại học, thuê các nhà khoa học tự nhiên và công nghệ tài năng có bằng cấp đến làm việc.
Một đặc trưng khác của xã hội khoa học ở Mỹ sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai là các phương pháp và cách tiếp cận khoa học đã trở thành chuẩn mực cho nhiều lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội Mỹ. Các phương pháp nghiên cứu trong khoa học tự nhiên đã được sử dụng để phân tích và khám phá các quan hệ xã hội. Hệ thống các nghiên cứu trong khoa học xã hội đã mở đường cho những chuyển biến xã hội rộng lớn mang tính cách mạng trong xã hội Mỹ lúc bấy giờ. Vụ thắng kiện nổi tiếng của Brown với Bộ Giáo dục năm 1954 đã chấm dứt nạn phân biệt chủng tộc trong các trường công lập chính là nhờ vào phát hiện của các nhà khoa học xã hội về những ảnh hưởng tiêu cực của tình trạng phân biệt trường lớp đến việc học tập của trẻ em. Khoa học thậm chí còn đưa ra những giải thích có sức thuyết phục góp phần nhận thức lại nhiều quan điểm huyền bí của tôn giáo về hiện thực, đưa ra những câu hỏi lớn trong loạt bài chiếm trọn các số của Tạp chí Thời đại (Time) năm 1966 thí dụ: “Phải chăng Chúa đã băng hà?”
Xã hội khoa học, tóm lại đó là xã hội mà trong đó khoa học, với các lý thuyết, phương pháp và mô hình của nó trở thành chuẩn mực cho các lĩnh vực hoạt động xã hội, được Chính phủ, các tập đoàn và doanh nghiệp ưu tiên đầu tư, là mẫu hình nghề nghiệp lý tưởng của các tầng lớp thanh niên, được xã hội trọng dụng và kỳ vọng. Đầu tư của Chính phủ và doanh nghiệp cho nghiên cứu cơ bản được coi là điều kiện tiên quyết và chắc chắn bảo đảm sự phồn vinh dài hạn của các cá nhân, tập đoàn, doanh nghiệp và xã hội nói chung.
Xã hội hậu khoa học
Trước hết, theo GS. Christopher T.Hill, “xã hội hậu khoa học” không có nghĩa là một xã hội không còn có vai trò của khoa học. Trong một xã hội hậu khoa học người ta vẫn sẽ tiếp tục sử dụng những lý thuyết và phát minh khoa học mới nhất làm cơ sở để đổi mới và phát triển. Xã hội hậu khoa học vẫn bao hàm các yếu tố của xã hội khoa học cũng như thời đại ngày nay người ta vẫn sử dụng công nghệ chế tác đồ đá của thời kỳ đồ đá, vẫn sử dụng sản phẩm của văn minh nông nghiệp và chế tạo sản phẩm công nghiệp của thời đại cách mạng công nghiệp.
Tuy nhiên, trong kỷ nguyên của xã hội hậu khoa học, việc tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học tại chỗ như là một mô hình bắt buộc để đưa ra bất kỳ tri thức khoa học mới nào không còn là tất yếu và có thể sẽ bị thay thế hiệu quả hơn bởi việc tận dụng các tri thức khoa học mới đã được tạo ra ở bên ngoài. Tri thức khoa học mới làm nền tảng cho những đổi mới trong xã hội hậu khoa học sẽ vẫn xuất hiện ở Mỹ nhưng không chỉ dưới dạng các lý thuyết mà phần lớn là ở những tri thức ẩn chứa trong các phương tiện, vật dụng, các hệ thống và quy trình được sáng tạo ở bất cứ nơi đâu trên thế giới. Xã hội hậu khoa học cũng sẽ cần ít nhà nghiên cứu hơn so với xã hội khoa học, sẽ có ít thanh niên bị lôi cuốn vào các lĩnh vực nghiên cứu khoa học bởi các triển vọng thu nhập vượt trội. Các công ty, doanh nghiệp trong xã hội hậu khoa học sẽ thuê ít các nhà chuyên môn về khoa học hơn. Vai trò của các nhà khoa học sẽ nghiêng nhiều về chức năng chuyển dịch và khai thác các tri thức mới hơn là chỉ chú tâm làm tăng kho tàng tri thức khoa học sẵn có. Doanh nghiệp sẽ bớt cam kết đầu tư dài hạn cho nghiên cứu cơ bản và dựa nhiều hơn vào các bên cung cấp tri thức thứ ba.
Trong một xã hội hậu khoa học, của cải và việc làm do đổi mới và những ý tưởng mới tạo ra sẽ dựa ít hơn vào đóng góp của các khoa học tự nhiên và kỹ thuật mà chủ yếu dựa vào các khoa học xã hội và khoa học tổ chức, vào nghệ thuật, các bí quyết kinh doanh và bị quyết định nhiều hơn bởi khả năng đáp ứng nhu cầu về các sản phẩm và dịch vụ đặc biệt được thiêt kế theo thị hiếu của cá nhân người tiêu dùng hơn là những sản phẩm có chi phí thấp và công nghệ hoàn toàn mới. Một doanh nghiệp sẽ không thành công trong xã hội hậu khoa học nếu sử dụng chiến lược bám đuôi rồi tìm cách cạnh tranh với những sản phẩm đã được các công ty ở các nước khác đưa ra thị trường. Ngược lại, kiểu chiến lược thành công sẽ đến từ nỗ lực tìm kiếm những tri thức mới bất kể nguồn gốc ở đâu, rồi đem kết hợp với những hiểu biết về văn hóa và thị hiếu của người tiêu dùng để đưa ra những sản phẩm và dịch vụ hoàn toàn mới. Chiến lược đó đòi hỏi một mạng lưới kết nối những cá nhân có năng lực sáng tạo cao và sự cộng tác giữa các công ty để tạo ra những hệ thống mới khả dĩ có thể đáp ứng được những nhu cầu đa dạng và mới mẻ của người tiêu dùng một cách kịp thời.
Một trong những nguyên nhân xuất hiện của xu thế xã hội hậu khoa học ở Mỹ những năm đầu của thế kỷ 21 với những đặc trưng nêu trên là do: so với trước đây và với các nước khác, nghiên cứu cơ bản trong khoa học ở Mỹ đã ngày càng trở nên đắt đỏ hơn. Trong khi đó, sau nhiều thập kỷ nỗ lực, các nước đang phát triển và nhiều tổ chức phát triển quốc tế, đã đầu tư xây dựng được cơ sở hạ tầng khoa học đáng kể từ đó làm cho việc tiến hành các nghiên cứu khoa học ở trình độ quốc tế đã trở nên ít tốn kém hơn. Trong 2 thập kỷ qua, hầu hết các công ty Mỹ đã rút dần cam kết đầu tư cho các nghiên cứu cơ bản tiến hành tại các trung tâm nghiên cứu nội bộ. Theo lôgic đơn giản của lợi thế so sánh, đa số các công ty Mỹ đã và đang chuyển sang tìm kiếm nguồn cung cấp các tri thức và công nghệ mới chi phí thấp từ các trường đại học, phòng thí nghiệm Liên bang, các tổ hợp nghiên cứu, các hãng công nghệ cao mới khởi nghiệp, kể cả các phòng thí nghiệm ở nước ngoài. Số liệu thống kê cho thấy trong khoảng thời gian 15 năm từ 1988 đến 2003, tỷ lệ các bài báo khoa học của Mỹ được xuất bản giảm từ 38% xuống còn 30%. Thậm chí, số bằng sáng chế được cấp cho các nhà sáng chế Mỹ trong một số lĩnh vực quan trọng như điện tử, máy móc cơ khí hạng nặng đã giảm so với tỷ lệ của Nhật và Đức.
Hai thập kỷ qua cũng chứng kiến sự suy giảm quan tâm của thanh niên Mỹ đối với các bộ môn trước kia là thời thượng như toán học, khoa học và kỹ thuât. Sức ép cạnh tranh về thu nhập đối với các sinh viên theo đuổi nghề nghiệp khoa học ở Mỹ cũng đến từ những người nhập cư, thậm chí đến cả từ những sinh viên đã được đào tạo tại Mỹ làm cùng công việc như họ nhưng lại đang hưởng mức thu nhập thấp hơn ở các nước đang phát triển. Một khi năng lực nghiên cứu toán học và khoa học cơ bản bên ngoài nước Mỹ đã được nâng cao thì sức hấp dẫn của toán học và khoa học cơ bản đối với thanh niên Mỹ thông qua thu nhập, cơ hội việc làm tại Mỹ sẽ giảm đi và sự lựa chọn nghề nghiệp khôn ngoan đối với họ chắc chắn sẽ là tập trung sức lực của mình vào những lĩnh vực khác ngoài toán học và khoa học.
Khía cạnh quan trọng khác của xã hội hậu khoa học là giờ đây dường như xã hội đang cần những tri thức khoa học phức tạp hơn nhiều các khoa học cơ bản, đòi hỏi những tri thức sau tri thức khoa học cơ bản, kết hợp được tất cả các loại tri thức và năng lực để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của từng cá nhân, gia đình, công ty, cộng động và cả xã hội. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho người dân cần đến không chỉ là nền y học với các kiến thức y học cơ bản mà còn cần đến những kiến thức của y-sinh và sự kết hợp của nhiều lĩnh vực phức tạp khác liên quan đến sức khỏe từ dinh dưỡng đến các liệu pháp tinh thần và xã hội khác. Thành công trong một xã hội hậu khoa học phụ thuộc không chỉ vào sự chuyên môn hóa, mà còn bị quyết định ngày càng lớn bởi sự kết hợp, tổng hợp, gắn kết trong ý tưởng, trong các thiết kế, sáng tạo và mở rộng không gian tư duy. Có thể thấy được những thành công như thế từ những công nghệ kiểu tích hợp trong nền công nghiệp, dịch vụ Mỹ những năm gần đây như: kỹ thuật sản xuất đa phương tiện, thủ tục đặt hàng một click, các công cụ tìm kiếm trên mạng yahoo, google, điện thoại không dây, các ổ nhớ dung lượng lớn, v.v…Và mặc dù các thành tựu công nghệ này vẫn dựa vào các thành tựu của khoa học cơ bản về vật liệu, xử lý thông tin kỹ thuật số, các thuật toán máy tính, các phương pháp đo lường tiên tiến và các khoa học cơ bản khác nhưng của cải và giá trị gia tăng lại được sản sinh ra chủ yếu từ khu vực hạ nguồn của những ứng dụng.
Xã hội hậu khoa học trong khi vẫn duy trì, nuôi dưỡng và sử dụng khoa học với những thành tựu mang tính cơ bản nhưng về đặc trưng chung của sản xuất, của sáng tạo và xu thế của các quan hệ xã hội, tổ chức hoạt động xã hội đang và sẽ diễn ra theo xu thế hoàn toàn khác, xu thế của những tích hợp và nhân lên những tri thức khoa học sẵn có vốn có thể xuất hiện khắp nơi, xu thế hình thành những mạng lưới kết nối các năng lực nghiên cứu toàn cầu để hạ giá thành nghiên cứu, xu thế khoa học trở về với những nhu cầu cội nguồn và đa dạng mang tính nhân văn của những con người cụ thể và các tầng lớp dân cư với các quyền và lợi ích riêng ngày càng được tôn trọng một cách bình đẳng. Chí ít đó cũng là một xã hội trong đó vai trò của khoa học cần phải được nhìn nhận lại, định hướng lại trong một thế giới toàn cầu hóa, nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Lựa chọn nào cho Việt Nam?
Cái khó cho một nước đi sau như Việt Nam hiện nay là xã hội mới ở giai đoạn tiền khoa học và trong khi đất nước đang hướng đến một xã hội khoa học thì bộ phận tiền tiến nhất của thế giới đã chuyển sang xã hội hậu khoa học. Bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế làm phức tạp thêm sự lựa chọn cho Việt Nam. Một mặt chúng ta không thể khư khư bám giữ con đường riêng của mình. Mặt khác cũng khó có thể copy nguyên si mô hình của nước khác. Vậy thì lựa chọn nào cho Việt Nam?
Trả lời câu hỏi liệu xã hội hậu khoa học có quá xa với với Việt Nam đặt ra ở đầu bài viết có thể thấy: đã qua rồi thời đại của những thứ bậc trong một trật tự gần như bất biến giữa các nền KH&CN trong mô hình “đàn sếu bay” của các học giả Nhật Bản. Sự “phẳng” xuống của thế giới đã làm cho các nền kinh tế, văn hóa, xã hội và KH&CN trên thế giới ngày càng ngang bằng nhau hơn theo nghĩa liên thuộc lẫn nhau nhiều hơn, bình đẳng với nhau hơn trước những cơ hội mới. Một xu hướng nổi lên của “các yếu tố hậu khoa học” trong xã hội Hoa Kỳ cũng đồng nghĩa với sự tham gia của các nước khác ngoài Hoa Kỳ vào mối liên thuộc này trong đó có Việt Nam. Hơn bao giờ hết, một khi nước Mỹ đã bước vào xã hội hậu khoa học thì chính sự phẳng xuống của thế giới cũng sẽ nhanh chóng lan tỏa những yêu cầu và cấu trúc của xã hội này khắp các vùng, các khu vực của thế giới cũng giống như mạng internet toàn cầu, như điện thoại đi động và các ứng dụng công nghệ khác mà chỉ cách đây chừng 1 thập kỷ ít người ở các nước đang phát triển nghĩ có thể hình dung.
Sự xuất hiện của xã hội hậu khoa học sẽ đưa lại cơ hội thực sự đối với những nước đi sau như Việt Nam. Cũng như chính trạng thái tiền khủng hoảng, chưa định hình về triết lý của hệ thống giáo dục nước ta hiện nay, xét về một mặt nào đó lại là cơ hội để thiết kế lại ngôi nhà giáo dục Việt Nam khang trang và hiện đại hơn, khả dĩ có thể bắt kịp với những đặc điểm và yêu cầu của xã hội hậu khoa học. Đó cũng là cơ hội để Việt Nam có thể “đứng trên vai người khổng lồ” về khoa học ở đây là những thành tựu khoa học cơ bản tạo ra bởi các phòng thí nghiệm đại học ở các nước tiên tiến, các tổ chức hợp tác quốc tế đa phương và song phương về KH&CN. Cơ hội này cũng cho phép và đòi hỏi nhìn nhận lại về vai trò của đầu tư và tổ chức nghiên cứu khoa học cơ bản và chú trọng hơn đến các khoa hội xã hội và nhân văn trong chiến lược phát triển KH&CN của Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, xét theo ưu tiên chiến lược đối với Việt Nam, vai trò của hợp tác quốc tế về KH&CN, vai trò của cơ chế bảo đảm cho cả nền khoa học và kinh tế tiếp cận và sử dụng thành tựu của KH&CN quốc tế (mà thực chất là tận dụng những thành tựu KH&CN được tạo ra bằng tiền của người khác) trở nên vô cùng quan trọng và nên được ưu tiên ít nhất ngang bằng với việc xây dựng một Viện nghiên cứu hay một vài đại học đẳng cấp quốc tế ở trong nước. Đặc biệt việc đặt ra và thực hiện yêu cầu mới đối với giáo dục nói chung và đại học nói riêng về việc đào tạo những kỹ sư và cán bộ khoa học có tư duy sáng tạo và đổi mới, có năng lực liên kết các ý tưởng và tích hợp các thành tựu khoa học sẵn có, nhạy bén phát hiện và sáng tạo trong giải quyết các bài toán phát triển nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết thực, ngày càng phong phú của con người.
Trong xây dựng tiềm lực KH&CN, việc tạo ra cơ chế để liên kết các tổ chức KH&CN theo vùng, tạo ra không gian và cơ chế thúc đẩy liên kết giữa các tổ chức KH&CN trong vùng với các doanh nghiệp và hộ nông dân trên các vùng và địa bàn lãnh thổ theo mô hình các hệ thống đổi mới quốc gia và vùng (national and regional innovation systems) để tập trung vào các sản phẩm và dịch vụ trọng điểm quốc gia và vùng còn cấp thiết và có ý nghĩa chiến lược hơn việc đi tìm những ưu tiên cho từng bộ môn và lĩnh vực KH&CN theo cách tiếp cận tuyến tính vẫn thường được áp dụng trong các chiến lược phát triển KH&CN trước đây. Việc hình thành trong cả nước các cụm liên kết bao gồm các tổ chức KH&CN, doanh nghiệp, cơ sở đào tạo và dịch vụ theo vùng và các cụm liên kết nội vùng sẽ là một công cụ quan trọng để các chính sách của Chính phủ vượt qua các ranh giới hạn hẹp của mô hình tuyến tính trong xã hội khoa học.
Và cũng không kém phần quan trọng, nâng cao tính nhân văn của chiến lược phát triển KH&CN, làm cho nó vừa thiết thực hướng vào phục vụ và đáp ứng được những nhu cầu phong phú, đa dạng và cụ thể của con người Việt Nam lại vừa bao quát được không gian văn hóa, hoạt động sáng tạo KH&CN và hoạt động kinh tế toàn cầu để tìm ra những trọng điểm, những khớp nối, những đột phá, các cơ chế thích hợp và hiệu quả Việt Nam có thể tạo ra – đó cũng là cách để Việt Nam chủ động hội nhập vào kỷ nguyên của một xã hội hậu khoa học từ một xã hội tiền khoa học mà không nhất thiết phải đi hết các chặng đường của xã hội khoa học.
Tài liệu tham khảo
1. Christopher T.Hill (2007), The Post-Scientific Society, Issues in Science and Technology Online, Fall 2007;
2. Christopher T.Hill (2009), Prospering in the Post-Scientific Society, Paper presented at RISTEX/JST/NISTEP, Tokyo, Iapan, June-2009.