Các chiến lược thích ứng biến đổi khí hậu liên quan đến nhận thức của nông dân
Các nhà nghiên cứu tại Ngân hàng Phát triển châu Á, Viện Nghiên cứu lúa gạo Quốc tế và Trung tâm Nghiên cứu châu Á (Chiba, Nhật Bản) tìm được bằng chứng cho thấy nhận thức của người nông dân về biến đổi khí hậu ở Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến chiến lược thích ứng của họ.

Việt Nam là một trong số năm quốc gia hứng chịu nhiều rủi ro từ biến đổi khí hậu, do đặc điểm địa hình trải dài theo bờ biển, các đồng bằng châu thổ và điều kiện kinh tế xã hội ở vùng sâu vùng xa. Sản xuất lúa gạo, vụ mùa quan trọng nhất với an ninh lương thực và người lao động nông thôn, đang phải đối diện với rủi ro khí hậu như nhiệt độ gia tăng, xâm nhập mặn, hạn hán, lũ lụt, dông bão. Sản lượng lúa được dự đoán sẽ suy giảm tới 25% và 50% trong hai thập niên tới. Vì vậy, việc nhận diện được những chiến lược thích ứng hiệu quả và hiểu được các nhân tố liên quan rất quan trọng để xây dựng các chính sách nông nghiệp tốt hơn.
Các nhà khoa học đã tập trung vào chiến lược thích ứng trong sản xuất lúa gạo ở ĐBSH và miền Trung, hai vùng quan trọng nhưng chưa được nghiên cứu nhiều. Dữ liệu có từ các cuộc phỏng vấn hộ nông dân vào năm 2016 do Viện Lúa gạo Quốc tế và Viện Chiến lược và chính sách nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam thực hiện. Các nông dân có kinh nghiệm canh tác ít nhất 10 năm, thuộc 438 nông hộ ở bảy xã của tỉnh Thái Bình, Nam Định, Quảng Ngãi và Hà Tĩnh.
Dữ liệu sản lượng lúa được thu thập trong mùa khô năm 2015 và mùa mưa năm 2016, trong đó năm 2015 có 39 ngày sóng nhiệt và có cường độ dữ dội nhất kể từ năm 1993.
Hầu hết nông dân đều nhận thức được hệ quả của biến đổi khí hậu trên đồng ruộng. Lũ lụt là sức ép khí hậu lớn nhất ở Hà Tĩnh (gần 90%), trong khi ở Nam Định, Thái Bình và Hà Tĩnh là nhiệt độ. Hạn hán cũng khắc nghiệt ở Hà Tĩnh với gần 80% nông dân lo ngại. Thêm vào đó, 30% nông dân ở các vùng đều cảm nhận được tình trạng xâm nhập mặn.
Có ba chiến lược chính về thích ứng và chống chịu trước sức ép khí hậu của nông dân: (i) sử dụng các giống lúa chịu được sức ép môi trường; (ii) sự chuyển đổi một hệ thống mùa vụ có nâng cấp; và (iii) các kỹ thuật kiểm soát dịch bệnh. Các nhà khoa học nhận thấy sự khác biệt đáng kể giữa việc sử dụng các giống chống chịu của chiến lược 1 ở các vùng, với 89,3 % tại miền Trung và 75,1% ở ĐBSH. Nguyên nhân có thể là do ở miền Trung, nông dân chịu nhiều sức ép môi trường hơn. Ngược lại, không có sự khác biệt đáng kể trong việc chuyển đổi sang hệ thống mùa vụ được cải thiện hơn: 35,1% ở miền Trung và 40,6% ở ĐBSH. Chiến lược sử dụng kỹ thuật kiểm soát dịch bệnh ở hai vùng cũng tương tự nhau: 38,7% ở miền Trung và 37,8% ở ĐBSH.
Khi thống kê sản lượng lúa gạo, thu nhập và các đặc điểm của chủ nông hộ, các nhà khoa học nhận thấy vào mùa khô, sản lượng lúa ở ĐBSH cao hơn đáng kể so với miền Trung nhưng không khác biệt vào mùa mưa. Tuy nhiên, nông dân miền Trung có thu nhập cao hơn do nông dân ĐBSH phải thuê nhiều nhân công hơn, quy mô hộ gia đình lớn hơn và sử dụng thuốc trừ sâu nhiều hơn, dẫu có nhiều kinh nghiệm trồng trọt hơn. Khi đánh giá khả năng thích ứng của nông hộ, năng suất lúa và rủi ro bất lợi thì chiến lược 1 và 2 là để nâng cao năng suất, còn chiến lược 3 là giảm thiểu rủi ro.
Nhân tố quyết định việc lựa chọn chiến lược thích ứng là nhận thức về biến đổi khí hậu. Người nhận thấy rủi ro ngày càng tăng về căng thẳng nhiệt và lũ lụt có nhiều khả năng áp dụng chiến lược 1, trong khi nhận thức về độ mặn liên quan đến chiến lược 2. Người nhận được thông tin về mô hình canh tác từ các cơ quan chính phủ có nhiều khả năng áp dụng chiến lược 2, qua đó cho thấy chất lượng thông tin đóng vai trò quan trọng trong quyết định thích ứng.
Vì vậy các nhà nghiên cứu đề xuất xây dựng các gói chính sách từ dưới lên và theo bối cảnh nhằm tăng cường các biện pháp thích ứng hiệu quả cho nông dân, từ đó duy trì sản xuất lúa gạo trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Các phát hiện được nêu trong bài báo “Revisiting the effects of climate-smart agriculture: A Case of Vietnamese Rice Farmers), xuất bản trên tạp chí World Development Sustainability. □
Bài đăng Tia Sáng số 16/2025