Ung thư cổ tử cung có thể trở thành loại ung thư phổ biến thứ năm tại Việt Nam
Ung thư cổ tử cung là một bệnh ác tính phụ khoa, chủ yếu do các chủng virus HPV gây ra, và đang là một thách thức lớn với y tế công cộng trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung hiện là loại ung thư phổ biến thứ bảy ở phụ nữ, với tỷ lệ mắc là 7,1 trên 100.000. Trong khoảng một thập kỷ tới, các nhà khoa học dự báo loại ung thư này có thể trở thành loại ung thư phổ biến thứ năm tại nước ta.
Trước thực tế đó, một nhóm nhà khoa học đến từ Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Trường Đại học Nam Cần Thơ, Đại học Cần Thơ và Đại học Y Dược TP HCM đã phối hợp thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ gánh nặng hiện tại của ung thư cổ tử cung, các xu hướng dài hạn và đưa ra dự báo về loại ung thư này.

Nghiên cứu đã được đăng trên AJOG Global Reports (Q2 SCImago).
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp được lấy từ cơ sở dữ liệu về gánh nặng bệnh tật toàn cầu (Global Burden of Disease Study- GBD) trong giai đoạn từ 1990 đến 2021.
Kết quả cho thấy, vào năm 2021, ung thư cổ tử cung là nguyên nhân gây ra khoảng 4.369 ca tử vong tại Việt Nam. Tỷ lệ mắc mới, tỷ lệ hiện mắc và tỷ lệ tử vong lần lượt là 16,50/100.000; 88,11/100.000và 7,66/100.000.
Ngoài ra, cứ với mỗi 100.000 người dân, thì ung thư cổ tử cung đang gây ra trung bình 7,24 năm sống chung với bệnh tật và 225,49 năm tuổi thọ bị mất đi do tử vong sớm. Dự báo đến năm 2050, con số này là 147,55 năm. Nhóm nghiên cứu dự báo con số này sẽ tăng trong giai đoạn từ 2000 đến 2039, sau đó sẽ giảm dần đến 2050. Mức giảm dự báo trung bình là 0,2%/năm.
Theo độ tuổi, tỷ lệ mắc mới và hiện mắc của ung thư cổ tử cung bắt đầu ở độ tuổi 25 trở đi và tỷ lệ này đạt đỉnh ở độ tuổi 55 đến 79 tuổi.
Về xu hướng mắc mới, giai đoạn 1990-1992, số ca mắc mới giảm trung bình 2,42%/năm. Trong bốn năm tiếp theo, con số này tăng trung bình 2,69%/năm. Từ 1996 đến 2008, số ca mắc mới lại giảm nhẹ, trung bình 0,68%/năm. Đối với giai đoạn 2008- 2021, những thay đổi không có ý nghĩa thống kê.
Xu hướng tử vong có thể chia thành ba giai đoạn nhỏ. Từ 1990 đến 1992, số ca tử vong giảm trung bình 3,04%/năm. Trong bốn năm tiếp theo, số ca tử vong tăng khoảng 2,3%/năm. Từ 1996 đến 2021, số ca tử vong giảm trung bình 1%/năm.
Hai nguyên nhân hàng đầu dẫn đến ung thư cổ tử cung là hút thuốc lá và quan hệ tình dục không an toàn. Trung bình cứ 100.000 người, có 0,31 người tử vong do ung thư cổ tử cung liên quan đến hút thuốc và 7,66 người tử vong do ung thư cổ tử cung liên quan đến quan hệ tình dục không an toàn.
Nhóm nghiên cứu cho rằng có nhiều nguyên nhân gây ra những gánh nặng về ung thư cổ tử cung như trên. Thứ nhất, chỉ có 25%- 40% phụ nữ Việt Nam trong độ tuổi 30 – 35 từng được sàng lọc ung thư cổ tử cung. Lý do chính của việc không đi sàng lọc bao gồm thiếu nhận thức về tầm quan trọng của sàng lọc, kiến thức hạn chế về xét nghiệm sàng lọc, quan niệm sai lầm rằng thủ thuật gây đau, cảm giác xấu hổ, và sự bất tiện do thiếu cơ sở sàng lọc gần nơi sinh sống.
Thứ hai, nhận thức về tầm quan trọng và khả năng tiếp cận vắc-xin HPV còn hạn chế. Tỷ lệ tiêm chủng HPV tại Việt Nam chỉ đạt 12% trên tổng số phụ nữ nằm trong độ tuổi được khuyến nghị nên tiêm vắc-xin HPV (từ 9-26 tuổi), và có sự chênh lệch giữa khu vực thành thị và nông thôn (15,6% so với 9,2%)
Thứ ba, các yếu tố kinh tế – xã hội, đặc biệt là trình độ học vấn thấp, có thể dẫn đến khả năng cao hơn trong việc tham gia các hành vi tình dục nguy cơ và chậm trễ trong tiếp cận dịch vụ sàng lọc y tế, từ đó làm tăng khả năng mắc ung thư cổ tử cung lên lần lượt 41% và 20%.
Và cuối cùng, chỉ có 37 trong số 63 bệnh viện tuyến tỉnh trên cả nước có đủ năng lực cung cấp dịch vụ điều trị ung thư. Số lượng nhân viên y tế có kiến thức và kỹ năng đầy đủ trong điều trị ung thư vẫn còn thiếu, khiến hệ thống y tế hiện nay chỉ có thể đáp ứng khoảng 30%- 40% nhu cầu dịch vụ như tư vấn, khám và chữa bệnh về ung thư.
Thuyết Xuân