20 năm hoạt động trao đổi nghệ thuật

Nhân dịp một số nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa tên tuổi của Mỹ đến Việt Nam dự Hội thảo Văn học Việt Nam – Hoa Kỳ sau chiến tranh vào đầu tháng Sáu này, Tia Sáng xin trích giới thiệu bài viết của ông Kevin Bowen, Giám đốc Trung tâm William Joiner (Trung tâm Nghiên cứu hậu quả xã hội và chiến tranh – ĐH Massachusetts, Mỹ), về hành trình 20 năm hoạt động trao đổi nghệ thuật với Việt Nam của Trung tâm.




Dù có rất nhiều viện và trung tâm nghiên cứu tại các trường đại học ở Mỹ và trên toàn thế giới, trung tâm William Joiner vẫn là độc nhất vô nhị. Trung tâm hình thành nhờ một nhóm cựu chiến binh tại một trường đại học công trong thành phố nhằm vinh danh một người trong số họ, một cựu binh người Mỹ gốc Phi, một người gia nhập quân đội, không phải là một vị tướng hay chính trị gia nổi tiếng, một người dành cả đời mình giúp đỡ các cựu chiến binh khác và một người đã chết vì ung thư liên quan tới nhiệm vụ của ông là vận chuyển những thùng chất độc da cam trong cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam.

Lập ra một trung tâm như vậy không hề dễ dàng. Hàng đoàn cựu chiến binh đã đứng dưới mưa trước cửa văn phòng Tổng thống. Các sinh viên, bạn bè gọi điện và gửi thư tới trường đại học và tới các quan chức được bầu. Cộng đồng đại học đã giúp đỡ rất nhiều.

Năm 1986, tôi rời Boston sau ngày Giáng sinh để thực hiện chuyến đi trở lại Việt Nam. Chuyến đi đầu tiên đó đã thay đổi cuộc đời tôi mãi mãi. Trong nhiều tháng, tôi cố gắng miêu tả điều đã xảy ra. Lần đầu tiên sau 2 thập kỷ, bàn chân tôi có cảm giác kết nối với mặt đất, toàn bộ cơ thể tôi thức dậy, không phải trong bầu không khí cảnh giác cao độ của chiến tranh mà là sự công nhận và trân trọng đối với sự thống nhất và toàn vẹn của mỗi khoảnh khắc.

Trong chuyến đi đầu tiên đó, tôi đã đi qua những khu vực mà tôi đã từng ở trong chiến tranh. Ở Huế, tôi gặp người lãnh đạo của phong trào kháng chiến địa phương, Nguyễn Văn Lương. Bên bàn ăn tối, chúng tôi trao đổi những câu chuyện. Cuối bữa ăn, ông ấy đề nghị nâng cốc. Ông ấy giơ tay lên và nói: “Chúng ta đã từng gặp nhau như những người lính cầm súng, giờ chúng ta gặp nhau như những giáo viên cố gắng kiến tạo hòa bình. Hãy nhớ rằng ông luôn được chào đón ở đây”.

Lời khích lệ này đã giúp tôi trở lại Việt Nam vào năm 1987 với nhóm USIRP, cùng với một vài cựu binh khác muốn thiết lập những chương trình trao đổi giữa hai nước. Tháng 1/1988 là chuyến đi đầu tiên của phái đoàn thuộc trung tâm Joiner tới Việt Nam với những chuyên gia về y tế công cộng, bác sĩ, lịch sử, khoa học thư viện, nghệ thuật và hậu quả tâm lý và xã hội của chiến tranh ở Mỹ. Cuối năm đó, tôi trở lại Việt Nam với vợ của tôi Leslie, người đã rất yêu Việt Nam và trong 20 năm sau đó đã mở cửa nhà chúng tôi cho rất nhiều khách Việt Nam và rồi họ cũng như những thành viên của gia đình chúng tôi.

Điều đã thay đổi nhiều nhất qua năm tháng, tôi nghĩ đó là sự thay đổi trong cách tôi cảm nhận Việt Nam, từ một nơi của chiến tranh và những người lạ nguy hiểm trở thành một nơi giống như ngôi nhà thứ hai, nơi có bạn bè và gia đình, nơi khích lệ và nuôi dưỡng tinh thần.

Cũng trong những chuyến đi đầu tiên, chúng tôi gặp Lê Lựu, người sau này trở thành chiếc cầu nối đầu tiên và quan trọng nhất của chúng tôi với Việt Nam. Ông giới thiệu chúng tôi tới trung tâm nuôi dưỡng những cựu chiến binh tàn tật và giới thiệu chúng tôi đến nhà văn Việt Nam đầu tiên. Mùa hè đó, ông cùng bạn của mình Ngụy Ngữ, là những vị khách nhà văn Việt Nam đầu tiên của chúng tôi đến Mỹ. Tiểu thuyết Thời xa vắng của ông là cuốn sách đầu tiên chúng tôi dịch và là bản dịch đầu tiên của Việt Nam nhận được tài trợ từ Quỹ quốc gia vì nghệ thuật.

Những chuyến thăm đầu tiên đó không dễ dàng. Có rất ít nguồn tài trợ. Các nhà văn Việt Nam phải ở cùng gia đình tôi ở Dorchester hoặc nhà của những người bạn Việt Nam. Những tác giả Mỹ thì ngủ trong trại ở ngoài sân nhà tôi cũng như ở nhà của đồng giám đốc David Hunt. Ngôn ngữ vẫn ngăn cách chúng tôi; chúng tôi dựa vào một số người bạn Việt Nam như Nguyễn Bá Chung hay Ngô Vĩnh Long để có thể trao đổi với các nhà văn Việt Nam. Don Luce, người đã công bố sự tồn tại của “những chuồng cọp” thời chiến cũng đến để giúp đỡ, cũng như những người bạn thuộc phái đoàn Việt Nam, sau khi nhận được sự cho phép đặc biệt của Chính phủ Mỹ đã đến với chúng tôi từ phái đoàn ở Liên Hợp Quốc cách đó 25 dặm.

Năm 1989, chúng tôi thấy những người biểu tình tấn công Lê Lựu, Nguyễn Quang Sáng và Nguyễn Khải ngay trước thư việc công cộng Boston. Một bức tranh cũ về sự kiện này cho thấy các cựu binh Mỹ nắm chặt tay nhau bảo vệ “những cựu thù” khỏi đám đông người Mỹ gốc Việt và những người ủng hộ họ. Những người phản đối và những đoàn biểu tình đã là chuyện xảy ra thường xuyên.

Điều này không ngăn cản những vị khách Việt Nam mời các nhà văn Mỹ sang tham dự hội thảo các nhà văn cựu chiến binh lần đầu tiên được tổ chức ở Việt Nam năm sau đó. Hội thảo của chúng tôi trở thành một điểm kết nối các nhà văn, nghệ sĩ Việt Nam và các nhà văn, nghệ sĩ Mỹ. Mỗi năm, khi mùa xuân đến, những câu hỏi lại xuất hiện: nhà văn nào sẽ đến năm nay?

Những tuyển tập, sách, bài báo viết về các tác phẩm của Việt Nam cũng xuất hiện. Thời xa vắng được Nhà xuất bản Đại học Massachusetts xuất bản. Writing between the Lines (Viết giữa những đường ranh giới) là một tuyển tập những bài thơ và truyện của các nhà văn từ cả hai phía cũng đã ra mắt công chúng lần đầu tiên. Bản thảo mà Vũ Tú Nam, Chính Hữu và Anh Ngọc trao cho chúng tôi đã trở thành tuyển tập song ngữ Mountain River (Sông núi). Martha Collins và Thùy Dinh dịch Green Rice (Lúa xanh) của Lâm Thị Mỹ Dạ. Martha Collins cũng dịch Những người đàn bà gánh nước sông của Nguyễn Quang Thiều. Nguyễn Bá Chung và tôi dịch Distant Road (Đường xa) của Nguyễn Duy. George Evans và Nguyễn Quý Đức dịch The Time Tree (Cây thời gian) của Hữu Thỉnh. Fred Marchant và Nguyễn Bá Chung hợp tác để dịch Từ góc sân nhà tôi của Trần Đăng Khoa. Tập thơ của các nhà thơ Việt Nam và một loạt các xuất bản phẩm của Curbstone cũng ra đời.

Đã có những quãng thời gian khó khăn như: sự không hiểu nhau giữa các nhà văn, sự tấn công thù địch của các cựu chiến binh và những người Việt Nam vẫn bị nỗi tức giận và lòng hận thù của chiến tranh ám ảnh, họ gắn cho chúng tôi mác “cộng sản” và thậm chí chỉ trích Giải thưởng quốc gia vì nghệ thuật đã sử dụng tiền thuế để tài trợ việc dịch thuật văn chương cộng sản.

May mắn là tôi có nhiều bạn bè. Và chúng tôi có Việt Nam. Trong nhiều năm, những chuyến đi của các nhà văn Việt Nam tới Mỹ mang ý nghĩa “hồi phục” cho chúng tôi rất lớn. Nhìn thấy bạn bè, cùng nghe nhạc, nghe thơ ở sân sau, thăm đền chùa, thắp hương, nhìn thấy con của những người bạn lớn lên, bạn bè tôi trở thành ông bà. Nói về đất nước của chúng tôi, những cái đúng và sai của họ. Những bài thơ, bộ phim, âm nhạc của họ. Việt Nam đã trở nên một nơi giống như để hành hương. Tôi không chắc là chúng tôi tìm kiếm cái gì. Có thể là sự hiểu nhau. Hòa bình. Tình yêu. Sự mở mắt.

Vài năm trước, hành trình này đã lên đến đỉnh điểm khi Nguyễn Duy, Nguyễn Bá Chung và tôi bắt đầu dịch Thơ thiền Lý-Trần. Công việc dịch của chúng tôi diễn ra đồng thời với việc đi thăm các ngôi chùa, trèo lên những ngọn núi. Còn có chặng hành trình nào tuyệt vời hơn thế, chặng hành trình từ chiến tranh đến hòa bình?

Chúng tôi mắc nợ rất nhiều Việt Nam và các nhà văn của họ. Sự rộng lượng của họ luôn làm tôi kinh ngạc. Sự dũng cảm, cởi mở, kiên nhẫn, tử tế luôn là nền tảng cho sự hợp tác của chúng tôi. Tôi sẽ thiếu sót nếu không nói rằng chúng tôi không thể làm được tất cả việc này nếu không có một nhà văn đặc biệt, người bạn của chúng tôi, Nguyễn Bá Chung, người đã liều cả mạng sống của mình ở thời điểm đó để giúp chúng tôi hoàn thành công việc của mình.

Công việc đối thoại, trao đổi, dịch thuật, mở rộng trái tim chúng ta, ngôi nhà của chúng ta cho người khác có thể là nguy hiểm hơn 20 năm trước đây khi chúng ta bắt đầu công việc này. Với ý nghĩ đó trong đầu, có thể chúng ta nên nhìn vào những thành công mà chúng ta đã làm được, không phải là vì công việc đó đã đi đến điểm kết thúc, mà vì chúng ta nên thấy nó mới chỉ ở giai đoạn bắt đầu.

Tác giả

(Visited 5 times, 1 visits today)