“Bao lần cầu vồng xuất hiện”: Kawabata, cái đẹp, cái chết
Sự vọng tưởng của một cái đẹp đã qua chẳng qua cũng là cái chết của cái đẹp. Nhưng dù sao ở cái chết của cái đẹp cũng có một cái đẹp.

Lần đầu tiên, 虹いくたび của Kawabata được dịch qua tiếng Anh. Nguyên tác có thể hiểu là: bao lần cầu vồng xuất hiện. Bản dịch của Haydn Trowell tối giản hơn, chỉ là The Rainbow, chỉ là Cầu vồng. Tôi đọc Kawabata cũng không ít, nhưng đọc tới một chương nàng Momoko hồi tưởng lại người bạn trai năm xưa thời trước chiến tranh, giờ chiến tranh đã hết và anh cũng đã chết, Keita đề nghị nàng cho anh được tạo tác một chiếc bát bạc, với hình dáng bầu ngực của nàng, như mô phỏng nghi thức của những người lính Nhật, mà phải là người lính Nhật thuộc đơn vị shimbu-tai, những người mang nhiệm vụ cảm tử, uống một ly sake lạnh trước khi xung trận, vẫn có cảm giác như lần đầu được đọc Kawabata. Cảm giác rùng rợn, đê mê, ngây ngất trước cái đẹp và cái chết. Ai nói cái sống và cái chết là hai mặt của một đồng xu thì sai rồi, phải là cái đẹp và cái chết mới phải.
The Rainbow bắt đầu trên một chuyến tàu, một cuộc gặp gỡ. Mở đầu rất Kawabata rồi đó. Snow country (Xứ tuyết) có câu mở đầu mà người yêu văn chương ai cũng nhớ: “Qua một đường hầm dài giữa hai vùng đất và thế là đã tới xứ tuyết.” Ông Shingo trong The sound and the mountain (Tiếng rền của núi) cũng thường dịch chuyển bằng những chuyến tàu, và trong một lần giữa hàng chục hàng trăm lần như thế, ông bắt gặp một hành khách nữ và một hành khách nam có vẻ ngoài thật giống nhau đến mức nghĩ rằng hai người phải là hai cha con, ấy thế mà không phải, họ chỉ là hai kẻ lạ thôi, và ông nghĩ về việc “hoàn toàn ngẫu nhiên họ đã cùng ở trong một chuyến tàu. Họ gặp nhau lần đầu và hẳn cũng là lần cuối. Trong vài ba chục phút của cả một cuộc đời”. Còn cuộc gặp gỡ của The Rainbow? Cũng rất tình cờ, rất vô cớ: nàng Asako đi tàu mùa đông, ngồi cùng khoang một người đàn ông ẵm một em bé còn đang ở tuổi mặc bỉm mà không thấy mẹ đứa trẻ đâu. Nàng nhìn người cha thành thạo chăm sóc con. Nàng nói chuyện vài câu với anh về cầu vồng đang hiện lên trên bờ xa hồ Biwa, không biết rằng uyên nguyên mối quan hệ giữa họ chẳng hề dễ bề giải thích.
Truyện cắt ở đó, rồi quay lại chuyện chị em Momoko và Asako. Hai nàng là chị em cùng cha khác mẹ. Sau khi mẹ Momoko tự sát, nàng tới sống cùng cha và mẹ kế. Nhưng họ còn một người em gái nữa, mẹ là một geisha ở Kyoto. Sau khi mẹ Asako qua đời, nàng luôn muốn đi tìm người em ấy. Momoko thì thờ ơ. Nàng còn nhiều điều để lo lắng hơn: như ái tình và cái chết, nhất là ái tình. Còn về cái chết, nàng đã từng thử tự kết liễu đời mình. Nàng từng luôn mang trong người cyaniade, trong thời chiến tranh, do nhà máy phát cho, để có thể tự quyết định được thân phận nếu rơi vào tay kẻ thù. Và nàng đã thử. Nhưng không chết. Vì ai đó đã đánh tráo cyanide thành đường. Ai đó có lẽ đã biết trước xu hướng tự hủy của nàng, đã ở trong nàng từ khi mẹ nàng chọn cái chết. (Ý tưởng này rất gần với Milan Kundera trong Điệu waltz giã từ với nhân vật Jakub luôn mang trong mình thuốc độc, cùng lý do, “cần phải có ít nhất một sự chắc chắn, làm chủ được cái chết của mình, chọn được thời điểm và phương tiện theo cách của mình. Phải có sự chắc chắn đó mới có thể chịu đựng được nhiều điều”).
Thôi thì cũng không cần phải nói về những cảm thức Nhật Bản, nào wabi, nào sabi, nào yugen, nào mono no aware nữa. Cái đó là cơ bản rồi, độc giả nào chắc cũng đọc ra được hết thôi. Nhưng dù có đọc Kawabata bao lần và đã bước quen trong những lối đi mỹ học của ông thì ta cũng vẫn không thể không rùng mình trước những vùng âm u khi đọc thêm một tác phẩm nữa. Vẫn là địa giới của cái đẹp: ta đi giữa những ngôi cổ tự, những biệt thự xưa của các lãnh chúa, đi bên những loài thực vật với tên đẹp tha thiết, cây vô ưu, sơn trà, anh đào, mimosa, lệ đường, đỗ quyên, thụy hương, nam thiên trúc, tuyết tùng… lúc nào hình như cũng đang là một mùa hoa nào đó, trên dưới hai chục lần trong tiểu thuyết nhắc đến một tán hoa, một mùa hoa, một bông hoa đương nở, nhưng sự thưởng thức chúng không làm vơi đi những nỗi bất an mơ hồ của mỗi nhân vật, như đi dưới bóng những hàng cây tăm tối.
Một chuyện mà Kawabata kể lại trong truyện qua lời Asako, rằng cha cô từng kể một vị họa sư – thiền sư từng yêu cầu chặt hết những cây anh đào ở chùa Tofukoji vì sợ một ngày kia nơi ấy sẽ trở thành chốn vui chơi phù phiếm. Câu chuyện về sự đoạn tuyệt với những cây anh đào tươi đẹp vừa thật tàn bạo, vừa thật khắc nghiệt, mà cũng thật mẫn tuệ và thông thái. Một câu chuyện mà ở đó cái chết của cái đẹp lại nảy sinh ra một cái đẹp khác: cái đẹp của cái chết.
Ta đứng trước cái đẹp mà Kawabata bày ra, không biết nên cảm thấy thế nào cho phải: cái đẹp gì mà yêu nghiệt lắm nhưng siêu trần cũng nhiều. Người con gái đã ở tuổi trường thành đi tắm cùng cha, hai cha con trần truồng và ý nghĩ hiện lên trong đầu người cha rằng con gái ông đẹp như một con chó, ông muốn thiết kế cho con một ngôi nhà nhưng lại biết không thể làm ra ngôi nhà nào, hay bộ quần áo nào xứng với nàng. Cùng với đó, ông thấy khó chịu trước sự hiện diện của nàng, bởi sự hiện diện gợi nhắc cho ông tới thời tráng niên đã mất. Ở cuối đoạn ấy, Kawabata mô tả người đàn ông nán lại nhìn nhánh thụy hương của con ông, với “tràng hoa hình ống ngắn, ở giữa màu hồng, tua ra lớp diềm điểm tím”. Rất sắc dục, rất thoát tục.
Những cái đẹp ẩn chứa trong nó sự không bền. Và Kawabata không nhất thiết phải nệ vào sự vô thường của tự nhiên để diễn tả điều đó. Ông làm gì? Ông để cho Momoko áp lên chiếc bát cũ mà người bạn trai đã đóng khuôn thạch cao trên bầu ngực mình, trũng xuống một hố nhỏ hình núm vú, và vì hố trũng ấy mà chiếc bát không thể đứng mà không ngã đổ. Nhưng nhiều năm sau, khi nàng áp chiếc bát lên ngực mình, nó không còn vừa vặn nữa, ngực nàng đã lớn hơn. Cái đẹp đã dừng lại. Cái đẹp ấy là một cái đẹp trong sự chết. Bất chấp nỗ lực vật chất hóa cái đẹp của Keita để bảo tồn nó trong một hình hài cầm nắm được, nhưng cái đẹp đã ngừng lớn lên, ngừng nảy nở. Ở một chiều kích nào đó, sự kiện chiếc bát đã không còn khớp với bầu ngực nàng Momoko cũng giống như tiệc trà Miyako Odori sau bảy năm chiến tranh bị hủy bỏ, nay tổ chức trở lại, nhưng phải tổ chức trong một căn phòng trang hoàng lối Tây phương bởi chốn cũ đã được trưng dụng làm rạp chiếu bóng, còn hai chị em Momoko và Asako buồn chán bởi không quen với trường phái múa chậm rãi, mộc mạc ở cố đô — sự níu dài một cái đẹp không làm cho cái đẹp ấy tiếp tục sống. Nó đã chết rồi.
Những mạch truyện ấy làm tôi vu vơ nghĩ lại câu chuyện về việc chặt anh đào. Phải chăng vị thiền sư kia đã nhìn trước một ngày nào đó, dù có để lại anh đào thì phong cảnh anh đào trong ngôi cổ tự cũng không còn là phong cảnh cũ nữa, phong cảnh cũ ấy sẽ chết, nên mới cho chặt anh đào để nó mãi mãi không chết?
Nhưng thôi, quay lại “câu hỏi” của chính Kawabata đi, vậy thì 虹いくたび, bao nhiêu lần cầu vồng xuất hiện. Thực chất, chỉ duy một lần. Là ngay đoạn đầu tiên đó. Cầu vồng mùa đông mà vị khách trên tàu ngắm và nghĩ về đứa con mình đang ẵm: “Bất kể sau này bao lần nó quay trở lại đường này, ai có thể bảo liệu nó sẽ lại thấy cầu vồng trên hồ Biwa chứ?”. Lần thứ hai cầu vồng xuất hiện là trong tranh, một bản tranh của Millet mà người cha mua về treo trong phòng bệnh của Asako. Nàng thỉnh cầu cha một bức tranh khác của Fujishima Takeji, nhưng cha lại chọn bức ấy. Nàng không nhớ rằng gia đình từng có một bản tranh tương tự của Millet mà mẹ nàng vô cùng yêu thích. Cầu vồng nàng nhìn thấy là của mùa đông. Trên tranh Millet là của mùa xuân. Có lẽ nàng đã từng thấy cầu vồng mùa xuân ấy, vẫn trong tranh Millet, nhiều năm trước, nhưng nàng đã quên rồi. Cái đẹp không lặp lại. Vẫn là bức tranh ấy nhưng nàng lại ao ước được thấy cầu vồng mùa đông như trên hồ Biwa, một cầu vồng không biết bao giờ còn thấy lại, dù trở về lối cũ. Sự vọng tưởng của một cái đẹp đã qua chẳng qua cũng là cái chết của cái đẹp. Nhưng dù sao ở cái chết của cái đẹp cũng có một cái đẹp.□
Bài đăng Tia Sáng số 18/2025