Biển trong văn chương Chăm

Dù người Chăm nổi tiếng với kĩ thuật xây tháp gạch nung có một không hai, được thế giới biết đến với lúa Chiêm ngắn ngày, hay là dân tộc từng dựng nên hệ thống dẫn thủy nhập điền rất hiện đại, nhưng chính đời sống biển làm nên đặc tính Chăm.

Tiếng Chăm có nhiều từ để chỉ biển. “Tathik” là biển; bên cạnh “tathik”, tiếng Chăm còn có “darak”. Dân gian Chăm nói: “Laik tamư tathik praung darak praung”, nghĩa là chìm vào biển cả. Như vậy, “darak” vẫn là biển. “Darak” còn được dùng để chỉ chợ. “Nau darak”: đi chợ. Bởi chợ ngày trước luôn được họp cạnh bờ biển. Cũng phải thôi, người Chăm là dân sống với biển và nhờ biển, nên chợ lớn phải họp cạnh bờ biển, và lắm lúc ngay trên biển.

“Cư dân Chăm cổ thường xuyên có mặt ngoài khơi, ngoài đảo xa. Vì thế họ đã có sự giao lưu kinh tế văn hóa với thế giới hải đảo Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương” (Nguyễn Đức Hiệp, 2006, “Lâm Ấp, Champa và di sản”, Vanchuongviet.org).

Cửa sông chạy ra biển tiếng Chăm là lammưngư, hay lơmngư. Xóm Cửa người Chăm gọi là “palei Lơmngư”. Biển xa và rộng, Chăm có chữ “tathik kuradong”, nghĩa là biển khơi. Lớn rộng và xa hơn nữa thì dùng từ “jallidi”, nghĩa là đại dương.

Dân tộc Chăm có máu phiêu lưu, phiêu lưu từ rất sớm. Sớm và xa. Sử sách ghi nhận ngay từ thế kỉ thứ IV, người Chăm đã đi tận Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Java, Malaysia… Vượt đại dương thì phải đi bằng tàu thuyền lớn. Máu phiêu lưu thể hiện ngay trong câu nói cửa miệng dân gian:

Mưtai di kraung, mưtai di tathik
Thei mưtai di danaw kabaw mư-ik takai palei.

Chết nơi biển rộng sông sâu
Ai đâu lại chết vũng trâu ven làng.

Nhưng lại cũng lắm lúc, Tapa truh tathik jơl di danaw: Qua khỏi biển sâu vướng ao nước cạn. Cuộc đời trớ trêu là thế, anh hùng khi gấp cũng khoanh tay.

Sử sách ghi nhận ngay từ thế kỉ thứ IV, người Chăm đã đi tận Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Java, Malaysia…

Người Chăm đa thần, và sống quan hệ mật thiết với biển, cho nên trong đời sống tâm linh họ thờ Thần Sóng (Po Riyak), Thần Biển (Yang Tathik) là điều không lạ. Những lúc lên rừng xuống biển (Trun tathik đik glai) gặp bao bất trắc hiểm nguy, người Chăm luôn cậy đến Thần Biển phò trợ độ trì.

Chú ý, cho dù Thổ Thần cũng là vị thần có vị thế đáng kể trong đời sống tâm linh Chăm, nhưng chính Thần Biển mới đóng vai trò quan trọng. Than vãn, nếu người Việt kêu: trời đất ơi, thì người Chăm: Trời biển ơi (Lingik tathik lơy). Họ kêu trời kêu biển (Ew lingik ew tathik) chứ không phải “la trời la đất” như người Việt. Cũng vậy, người Chăm nói “tối trời tối biển” (Xup lingik xup tathik). khác với người Việt là: [Mưa] tối mù trời đất.

Hẹn giờ giấc lên rừng lấy củi cũng nói: Tuk ia tathik đik – Lúc thủy triều lên (khoảng 1 giờ sáng). Để chỉ kẻ “nói thánh nói tướng”, người Chăm vận đến “biển” với thành ngữ Đom ngauk lingik ngauk tathik – Nói trên trời dưới biển. Gặp thế bí hay đường cùng, họ cũng lấy “biển” ra mà ví: Wơr glai yuw ralai di krưh tathik – Quẫn trí cùng đường như thân ralai giữa biển khơi.

Nghĩa là biển tràn ngập đời sống, văn chương và ngôn ngữ Chăm.

Tiếng nói bình dân ngày thường là vậy, trong văn học viết Chăm, biển cũng có mặt khắp. Để biểu thị cho mối quan hệ khăng khít của Ppo Tang Ahauk – một nhân vật trong lịch sử Champa cổ ở thế kỉ XVII – với biển cả, Damnưy Ppo Tang Ahauk viết:

Urang hu sang si đih
Ppo ngap anih dalam tathik
Urang hu sang si dauk
Ppo ngap danauk dalam tathik

Người có nhà để ngủ
Người cất chỗ trú giữa đại dương
Người có nhà để ở
Người lập nơi ngụ giữa đại dương.

Cuộc sống của ông không giống bất kì cuộc sống của người nông dân nào khác mà định mệnh gắn liền với đất, vì đất liền không phải là quê hương của ông. Một cái nhà: không, một nơi cư trú: cũng không nốt. Ông là chủ nhân đồng thời là tù nhân của biển cả. Biển cả là nơi ông sinh ra, tung hoành, tạo nên sự nghiệp rồi biến đi. Nội dung đoạn mở đầu của Damnưy được biến thành điệp đoạn, như đã thâu tóm cả cuộc sống và định mệnh của ông. Cạnh đó, Damnưy cũng không quên đề cập con tàu-ngôi nhà của ông:

Ahauk praung kluw pluh tajuh
Tagok mưk nhjuh bbauk chwai palau
Ahauk praung kluw pluh tajuh tapa
Tagok mưk ia bbauk chwai palau
Đik riyak khing đwơc
Yawa xơp ra pwơc dalam ahauk
Đik riyak khing nau
Danưy xơp ra klau dalam ahauk

Tàu to ba mươi bảy
Pô lên kiếm củi trên cù lao
Tàu ba mươi bảy sải
Ppo lên lấy nước trên cù lao
Cho tàu đi trên sóng
Nghe tiếng người nói vọng trong tàu
Cho tàu cưỡi sóng đi
Nghe tiếng người cười vang trong tàu

(Inrasara, 2011, Văn học Chăm khái luận, NXB Tri Thức, tr. 50).

Truyền thuyết về người tạo dựng vương quốc Champa là Ppo Inư Nưgar, tức Bà Chúa Xứ, cũng gắn chặt với biển. Bà đã làm chuyến vượt biển đến tận xứ Tàu xa xôi, sau đó là cuộc trở về cũng bằng đường biển, để cuối rốt chính bà điều hành thủy quân Champa đánh đắm đoàn thuyền hoàng tử Trung Hoa trong trận thủy chiến oanh liệt.

Đi biển, người Chăm chế tạo nhiều phương tiện với kích thước và hình dáng khác nhau. Thông dụng là thuyền (gilai), nhỏ hơn là ghe (gaiy). Gắn với thuyền có “bè” (rakik) như là phương tiện phụ để vận chuyển từ thuyền này sang thuyền khác, hay từ thuyền về đất liền. Thuyền cũng có loại thuyền độc mộc mà tiếng Chăm gọi là pluk, và thuyền thúng (janưk patih). Phương tiện lớn hơn là tàu (kapal) hay loại tàu lớn (ahauk, gilai ahauk) có khả năng viễn dương. Ppo Tang Ahauk đã sử dụng loại tàu này.

Tàu ông dài 37 sải tương đương với 60 mét – con số có phóng đại hay không ta không biết được, dẫu sao nó cho ta hình dung ông đang điều khiển con tàu rất lớn ở thời điểm đó của lịch sử. Con tàu chứa cả đoàn người cùng bao nhu yếu đáp ứng đầy đủ sinh hoạt của con người. Nó lớn đến không thể ghé đất liền mà chỉ tạt qua cù lao để lấy củi, nước ngọt. Tác giả Damnưy không cho ta biết tên cù lao, nhưng người đọc vẫn có thể tưởng tượng đó có thể là Cù Lao Chàm hay ít ra cũng là đảo Phú Quý của hôm nay.

Trong sử thi Chăm, thể loại văn học xuất hiện từ khá sớm, nhất là ở hai tác phẩm lớn là Akayet Inra Patra và Akayet Dewa Mưno, biển và đại dương còn là bãi chiến trường cho các anh hùng tỉ thí.

Tajuh harei tajuh mưlơm o thei alah
Dwa urang sunit ginrơh tamư tathik kuradong
Dwa urang ywơ jiơng inư mưdaung
Dalam tathik kuradong mưratak gơp tanan
Mưsuh gơp tajuh harei tajuh mưlơm
Tathik riyak lin mưklơm…

Bảy ngày đêm bất phân thắng bại
Hai kẻ kì tài kéo nhau vào đại dương
Cả hai biến thành loài thủy quái
Đâm chém nhau nơi ấy giữa trùng khơi biển cả
Bảy ngày đêm không ngưng nghỉ
Biển nổi sóng mịt mù…

(Inrasara, 2009, Sử thi Chăm, NXB Khoa học Xã hội, tr. 188)

Cuối cùng, trong văn học dân gian, biển cũng để lại dấu ấn rất đậm nét. Trong một truyện cổ, cuộc phiêu lưu kì thú của hai bạn thân là hoàng tử Pram Dit và Pram Lak ở những chi tiết gay cấn nhất chính là cuộc phiêu lưu dưới nhiều tầng biển.

Ngay cả truyền thuyết về người tạo dựng vương quốc Champa là Ppo Inư Nưgar, tức Bà Chúa Xứ, cũng gắn chặt với biển. Bà đã làm chuyến vượt biển đến tận xứ Tàu xa xôi, sau đó là cuộc trở về cũng bằng đường biển, để cuối rốt chính bà điều hành thủy quân Champa đánh đắm đoàn thuyền hoàng tử Trung Hoa trong trận thủy chiến oanh liệt.

Truyền thuyết cho ta biết cuộc đi và về của vị tạo lập nước Champa gắn liền với biển.

Có thể nói, dù người Chăm nổi tiếng với kĩ thuật xây tháp gạch nung có một không hai, được thế giới biết đến với lúa Chiêm ngắn ngày, hay là dân tộc từng dựng nên hệ thống dẫn thủy nhập điền rất hiện đại, nhưng chính đời sống biển làm nên đặc tính Chăm, từ đó hình thành một nền văn hóa biển độc đáo.

Tác giả

(Visited 80 times, 1 visits today)