Cái chết của văn tự chết?
Tiếng Việt và chữ Quốc ngữ trở thành ngôn ngữ quốc gia, và văn tự quốc gia bằng Sắc lệnh số 19 của Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 08/9/1945, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp kí. Sắc lệnh này cùng với Hiến pháp năm 1946 và hàng loạt những văn bản pháp lý về sau đã tạo nên một hệ sinh thái để tiếng Việt và chữ quốc ngữ phát triển, khiến văn hóa Việt Nam chuyển từ giai đoạn cận đại sang giai đoạn hiện đại. Ở chiều hướng khác, việc thành lập Viện Nghiên cứu Hán Nôm và các bộ môn giảng dạy Hán Nôm trong một số trường đại học là những chính sách cụ thể để hiện thực hóa chủ trương xây dựng nền quốc học, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Cái chết của một ngành học
Việc giảng dạy Hán Nôm trong một số ngành Nhân văn của một số trường Đại học đã bắt đầu từ những năm 1960-1970, mở rộng vào những năm 1980 đến giai đoạn 2010-2014. Môn Hán Nôm thực sự xuống dốc vào khoảng những năm 2014-2024 với một tốc độ chóng mặt. Nếu ở giai đoạn trước, Hán Nôm là một môn học đại cương (bắt buộc) cho các khối ngành Nhân văn (như văn học, sử học, ngôn ngữ học, Đông phương học, triết học- tôn giáo, thư viện, lưu trữ, bảo tàng, văn hóa, du lịch, báo chí…), thì cho đến nay, môn học này đã mất vai trò là một môn học bắt buộc, bị chuyển thành một môn tự chọn, và sau vài năm không được giảng dạy thì bị loại khỏi chương trình. Nguyên nhân của quá trình “mất giá” này có thể đến từ nhiều hướng khác nhau. Thứ nhất, sự chuyển đổi từ việc học theo môn học sang học theo tín chỉ đã kéo theo xu hướng cắt giảm các khối chương trình được cho là không cần thiết. Thứ hai, việc giáo dục đổi theo xu hướng “lấy người học làm trung tâm” tuy có nhiều điểm tích cực, xong cũng có những hệ lụy là phải chiều sinh viên, môn gì khó học, mất công, mất sức, mất thời gian, và làm sinh viên trượt nhiều, hoặc đơn giản là sinh viên không thích học thì sẽ không được đưa vào danh mục lựa chọn. Trong cơn bão của kinh tế thị trường, các cơ sở đào tạo không muốn mình thất thế trên các đường đua (học thuật, thăng hạng… ), nên việc điều chỉnh khung chương trình bằng cách cắt bỏ các môn gánh nặng, cũ kĩ, lạc hậu, đồng thời tích hợp các môn khó, giảm thời lượng học tập những môn “kém hot”, và tăng cường các môn mới, cập nhật với xu thế khoa học và công nghệ với khu vực và thế giới.
Ngành | Giai đoạn 1980-2000 | Hiện tại (năm 2024) | Ghi chú |
Văn học | Hán Nôm cơ sở đại cương | Hán Nôm cơ sở | Chỉ có Hán Nôm chuyên ngành Hán Nôm, không có Hán Nôm cho chuyên ngành folklore, văn học trung đại, văn học Trung Quốc, etc |
Ngôn ngữ | Hán Nôm cơ sở | Đã bỏ | Không có Hán Nôm cho chuyên ngành ngôn ngữ học |
Sử học | Hán Nôm cơ sở | Đã bỏ | |
Bảo tàng- Di sản | Hán Nôm cơ sở | Đã tích hợp, và bỏ môn chữ Nôm | |
Thư viện- lưu trữ | Hán Nôm cơ sở | Đã bỏ | |
Triết học | Hán Nôm cơ sở + không có HN chuyên ngành | Nhiều trường đã bỏ | |
Du lịch- văn hóa | Hán Nôm cơ sở + Hán Nôm du lịch | Nhiều trường đã bỏ | Đại học Công đoàn mới đưa vào giảng dạy |
Báo chí | Hán Nôm cơ sở | Nhiều trường đã bỏ |
Ngoài các nguyên nhân khách quan như trên, thì có một nguyên nhân chủ quan khiến cho môn Hán Nôm trở thành một “môn búa tạ” trong các trường đại học. Đó là sự không tương ứng giữa nội dung giảng dạy với chuyên ngành được giảng dạy. Giáo trình Hán Nôm cơ sở được sử dụng chủ yếu cho tất cả các ngành là giáo trình viết cho sinh viên ngành Văn học. Nội dung các giáo trình này chủ yếu học về các văn bản kinh điển Nho giáo (Tứ thư ngũ kinh), hoặc văn học trung đại Việt Nam. Chúng ta cứ thử hình dung, sinh viên ngành Bảo tàng- Di sản, trong suốt 4 năm học, mỗi năm đều phải học một học trình 45 tiết Hán Nôm với những Kinh thư, Kinh thi, Luận ngữ, hay văn học Trung đại. Trong khi đó, sau khi tốt nghiệp, họ phải tiếp cận với di sản Hán Nôm làng xã tại các di tích với đủ thể loại văn bản dân gian, từ hoành phi, câu đối, văn bia, sắc phong, cho đến thần tích, văn mục lục,… Đáng ra, môn Hán Nôm cơ sở ngay từ đầu phải biên soạn cho sinh viên của từng ngành, với khối lượng từ vựng cơ bản dành cho từng ngành, với những loại văn bản phổ biến cho từng ngành. Ví dụ, sinh viên ngành thư viện- lưu trữ thì chỉ cần học để phục vụ công tác lưu trữ- thư viện, với vốn chữ Hán chỉ khoảng 500-700 chữ (và kĩ năng tra cứu các sách công cụ), cùng lý thuyết về thư mục học và văn hóa sách truyền thống. Hay sinh viên ngành lịch sử, chỉ cần học khoảng 1200-1500 chữ để đọc dịch niên đại, địa bạ, và một số bộ sử cơ bản và các văn thể thuộc thể tài sử chí. Sinh viên ngành Tôn giáo- Triết học thì cần phải học 2000-3000 chữ qua hệ thống kinh điển. Ví dụ điển hình là khung chương trình cử nhân Phật học của Học viện Phật giáo Việt Nam, trong 4 năm học, đều có môn Hán cổ, chỉ học Hán văn cơ bản đến Hán văn nâng cao đều dựa trên nền tảng của các văn bản kinh điển Hán tạng. Đây chắc chắn là một sự thành công của khối đại học chuyên ngành tôn giáo, so với khối thế học ở các đại học công. Nhưng thay vì soạn các giáo trình cơ sở cho từng chuyên ngành, thì một số giáo viên “cắm chốt ở từng vị trí việc làm” lại chỉ biết dùng giáo trình có sẵn của ngành văn học để giảng dạy cho sinh viên của nhiều ngành khác nhau. Điều này đã dẫn đến hai hệ quả: thứ nhất, sinh viên không được trang bị các kiến thức “thực học” để sau này ra trường phục vụ và cống hiến cho ngành của mình. Thứ hai, sinh viên thấy môn Hán Nôm là một môn vô bổ, không cần thiết phải học, và không liên quan gì đến nghề nghiệp sau này. Xưa, sinh viên bị bắt học, thì đành phải học; đến khi sinh viên được trao quyền lựa chọn môn học, thì Hán Nôm dần trở thành một “môn học chết”.
Những dịch giả vô danh
Một trong những công việc nặng nề nhất của những người làm Hán Nôm đó là dịch thuật. Đương nhiên rồi. Món dịch thuật cổ ngữ – cổ văn tự nó rất khác so với dịch thuật sinh ngữ của các thông dịch viên hay các dịch giả hiện đại. Các dịch giả Hán Nôm thứ nhất phải đối diện với đủ loại chữ viết cổ khác nhau (chân, thảo, triện, lệ,…) và các kiểu chữ tục thể, dị thể, dị tự, các lối viết mang phong cách vùng miền, phong cách cá nhân, các lối viết giản thể, phi chính thống. Việc gặp một chữ “chưa từng biết” hay chưa từng được ghi nhận trong từ điển là chuyện thường ngày của những người cặm cụi với văn bản cổ. Có khi tra được một từ cũng đã mất cả buổi sáng; đọc được một chữ chưa từng xuất hiện trong bất kỳ từ điển nào là một kỳ công. Tôi còn nhớ, nhiều học giả ngoại quốc, những chuyên gia văn tự học của Nhật Bản, Trung Quốc, đến đọc sách tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, vẫn thường xuyên phải hỏi các học giả bản địa cách đọc “dị tự Việt tạo” của Việt Nam. Có khi, đọc được một chữ, và chứng minh cách đọc ấy là đúng, thì cũng đã có thể viết thành một bài nghiên cứu có tính học thuật chuyên sâu. Vượt qua được cửa ải văn tự, các dịch giả còn phải đối mặt với cái khó khăn thứ hai, đó là “chấm câu”. Người ngoài nghe “chấm câu” thì hơi buồn cười. Nhưng mọi người hãy thử tưởng tượng, một văn bia (bằng một mặt báo Nhân dân) không có một dấu chấm phẩy nào, và người dịch phải chấm làm sao cho đúng với ý cổ nhân (những người đã hoàn toàn không còn khả năng để giải thích cho chúng ta). Muốn “hiệu điểm” được, thì người dịch phải đọc thông văn mạch, hiểu được ngữ pháp cổ, hiểu được đặc trưng văn thể, cấu trúc văn bản. Đó là biền ngẫu hay văn xuôi, là thể phú, hay văn trường hàng, hay công văn hành chính (chế, chiếu biểu, bằng, trát,…). Mỗi văn thể lại có cấu trúc riêng, ngôn ngữ riêng. Chấm được câu xong thì lúc ấy mới bắt đầu có thể đặt bút dịch sang tiếng Việt. Nhưng khổ cái, nghề dịch thuật phải có chuyên môn. Giống như các dịch giả ngoại ngữ (sinh ngữ): nào là tiếng Anh chuyên ngành Y học, tiếng Trung chuyên ngành Thương mại, tiếng Nhật chuyên ngành Giáo dục,… Các dịch giả Hán Nôm bị/ được mặc nhận là phải dịch được hết tất cả các loại văn bản có chữ Hán chữ Nôm, nghĩa là người vốn chỉ có chuyên môn Hán Nôm (ngành văn học), phải dịch đủ các văn bản của tất cả các ngành khác nhau: từ: y dược học, thiên văn, địa lý, nông học, pháp luật, toán học,… cho đến văn học, triết học, sử học, văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo (Nho, Phật, Đạo, Thiên Chúa giáo),…
Đã từng có những quan điểm phổ biến của rất nhiều học giả và nhà quản lý cho rằng, chỉ cần các tài liệu Hán Nôm được dịch ra tiếng Việt hiện đại, thì công việc chuyển tải văn hóa truyền thống, và lịch sử Việt Nam cơ bản đã hoàn mãn. Xin thưa, đó chỉ là câu chuyện phục vụ nhu cầu phổ thông, chứ không phải là hoạt động cho nghiên cứu cơ bản.
Một câu hỏi được đặt ra là, vì sao các học giả của các ngành khác không dịch tư liệu Hán Nôm để phục vụ cho ngành của mình, mà các dịch giả Hán Nôm phải đi “dịch thuê viết mướn” cho các ngành khác? Đây chắc chắn là một sự sai lầm có tính hệ thống trong quan niệm về nghề nghiên cứu ở Việt Nam trong nhiều chục năm qua. Đã từng có những quan điểm phổ biến của rất nhiều học giả và nhà quản lý cho rằng, chỉ cần các tài liệu Hán Nôm được dịch ra tiếng Việt hiện đại, thì công việc chuyển tải văn hóa truyền thống, và lịch sử Việt Nam cơ bản đã hoàn mãn. Xin thưa, đó chỉ là câu chuyện phục vụ nhu cầu phổ thông, chứ không phải là hoạt động cho nghiên cứu cơ bản. Học thuật hàn lâm (đặc biệt ở quốc tế) không bao giờ có thể chấp nhận một học giả về Thần học hay lịch sử Truyền giáo Thiên Chúa giáo mà không biết Latin cổ và các cổ ngữ liên quan. Cũng như vậy, thật khó hình dung, một học giả Champa không biết tiếng Chăm cổ, một chuyên gia Phật giáo Việt Nam nhưng không có khả năng đọc nguyên ngữ các tác phẩm của Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ,…; hay các học giả về Lịch sử toán học, thiên văn học cổ, lịch pháp, y dược học cổ truyền Việt Nam mà không có khả năng đọc nguyên bản các sách của Tuệ Tĩnh, Lương Thế Vinh, Hải Thượng Lãn Ông. Vì thế khi ai đó có nói rằng: “các nhà Hán Nôm hãy dịch tư liệu đi để chúng tôi nghiên cứu”, thì đó là một câu nói khá vô duyên. Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng từng bức xúc nói với tôi rằng: “thế hệ các bạn phải làm thế nào để người ta khỏi nói rằng: mấy nhà nghiên cứu, mấy cậu Hán Nôm”. Ngành Hán Nôm được thành lập ban đầu là để lưu trữ và dịch thuật để phục vụ xã hội; chức năng nghiên cứu được đặt ở sau cùng. Phần lớn bên ngoài không biết rằng nghiên cứu Hán Nôm (hay văn hiến học Hán Nôm) là một ngành riêng, với hàng chục phân ngành chuyên biệt như: văn bản học (textology), văn tự học (graphology), Hán học (Sinology),… Các nghiên cứu mà ngành công bố thường bị chê là “không ai thèm đọc”. Còn các sản phẩm “dịch hộ” cho các ngành khác thì thường bị chê bai với nhiều kiểu khác nhau. Với thân phận là những người dịch thuê viết mướn, họ không được coi là những dịch giả. Tôi từng đọc một cuốn sách từ điển về các dịch giả văn học ở Việt Nam, đáng buồn thay, không có một cái tên nào được ghi nhận trong đó, kể cả những tên tuổi như Phan Văn Các, Trần Thị Băng Thanh, Cao Tự Thanh. Trong khi đó, đơn giá dịch thuật Hán Nôm, ở thời điểm hiện tại, phải nói là đã lạc hậu ba mươi năm. Ai sống được bằng nghề dịch thuật Hán Nôm, thì phải lao động miệt mài, thậm chí khổ sai.
Nhưng dẫu sao, ngành Hán Nôm đến nay vẫn là khá nhất trong số các ngành nghiên cứu ngôn ngữ văn tự cổ ở Việt Nam. Ta vừa có một Viện Nghiên cứu Hán Nôm – cơ quan duy nhất trên toàn quốc nghiên cứu về văn tự cổ- văn bản cổ, vừa có một số bộ môn trực thuộc một số khoa của các trường đại học trong Nam ngoài Bắc, vừa có mã ngành đào tạo từ cử nhân lên đến tiến sĩ. Cái bằng tiến sĩ, dẫu phải mang dưới danh của ngữ văn, hoặc văn học, hoặc ngôn ngữ học, thì nhân sự vẫn có thể ra làm việc đây đó trong các cơ quan nhà nước. Nhìn sang các ngành cổ tự khác, như chữ Chăm cổ, Thái cổ, Tày cổ, Khmer cổ,… và hàng loạt các ngôn ngữ dân tộc thiểu số thì Hán Nôm vẫn còn có chỗ đứng trong các hệ thống học thuật và vị trí việc làm. Vấn đề chính sách ra sao, lộ trình thế nào, để hà hơi tiếp sức cho các ngành ngôn ngữ dân tộc, và các văn tự cổ ngôn ngữ cổ khác ở Việt Nam, và để tiếp tục đẩy mạnh việc nghiên cứu Hán Nôm còn là một câu chuyện dài kỳ, cần phải có sự nỗ lực của nhiều thế hệ nữa.□
Bài đăng Tia Sáng số 1+2/2025