“Cảnh sát Ký ức”: Hỡi bình minh đẫm sương Ký ức

Nhớ tất cả là một lời nguyền. Nhưng quên tất cả cũng là một tai họa. Không có ai sợ sự quên lãng hơn những nhà văn. Sự mất mát của ký ức, với người viết, là một lá bài xấu, mà nếu bắt phải, là điềm báo cho tàn cuộc

Một ấn bản “The Memory Police” của Ogawa Yōko

Borges từng viết về một nhân vật tên Ireneo Funes, sau một lần ngã ngựa, liền nhớ hết tất cả mọi ký ức trên đời. Cơn thác ký ức sống động ngày đêm hành hạ anh. Nhớ tất cả là một lời nguyền. Nhưng quên tất cả cũng là một tai họa. Không có ai sợ sự quên lãng hơn những nhà văn. Có lẽ bởi xét cho cùng, viết, ngay từ đầu, đã là một thứ thuốc kháng quên, vì không nhớ được mãi nên ta phải viết. Sự mất mát của ký ức, với người viết, là một lá bài xấu, mà nếu bắt phải, là điềm báo cho tàn cuộc. Mà không chỉ với người viết, đến Thượng Đế cũng dặn con người phải nhớ. Thi Thiên 106:21: “Họ quên Đức Chúa Trời là Đấng cứu rỗi mình, Và đã có làm công việc lớn lao ở Ê-díp-tô.” Quên là nguồn gốc của sự phản Chúa.

Mường tượng ra một hòn đảo vô định vị, nơi “xưa xửa xừa xưa…đã từng có rất nhiều thứ”, nhưng dần dần những ký ức về từng thứ một biến mất trong tâm trí người dân trên đảo, năm 1994, Ogawa Yōko – một trong những tên tuổi lớn nhất của văn chương Nhật Bản đương đại – viết nên tiểu thuyết The Memory Police / Cảnh sát ký ức (bản dịch tiếng Việt của Uyên Thiểm: Kết tinh thầm lặng, một tựa đề sát hơn với nguyên tác Nhật ngữ). Người ta quên cái gì? Quên mọi thứ. Đầu tiên là những thứ nho nhỏ, những món trang trí, không có cũng không sao – dải ruy băng, lọ nước hoa, tự minh cầm, ngọc lục bảo; dần dần quên đến những phương cách sống – hoa hồng, chim chóc, trái cây, thuyền bè, lịch biểu, tiểu thuyết, ảnh; cuối cùng là quên luôn sự sống – chân trái, tay phải, cơ thể, giọng nói. Cái cuối cùng còn sót lại là giọng nói, để rồi giọng nói cũng biến mất. Nghĩa là quên luôn con người.

Chứng quên ở đây cũng giống như chứng mất ngủ trong Trăm năm cô đơn – cả làng Macondo rơi vào trạng thái dần mất đi ý thức, họ quên tên tuổi, quên danh tính, quên thời gian: nghĩa là ở cả hai tiểu thuyết, sự quên là một căn bệnh tập thể. Tất nhiên chúng cũng khác nhau, sự quên của dân làng Macondo không xoá sổ vật chất: thứ bị quên vẫn tồn tại, chúng chỉ không còn được đặt tên thôi; trong tác phẩm của Ogawa, quên có một tầng nghĩa mới. Nó như một lớp sơn vô hình, phết lên cái gì thì cái đó lập tức mất đi hình dạng. Hoa hồng bị quên thì hoa hồng phải bị đem thả trôi sông. Tiểu thuyết bị quên thì tiểu thuyết phải bị đem đốt sạch. Chim chóc bị quên thì chim chóc không còn xuất hiện trên bầu trời nữa. Ogawa duy tâm hơn Márquez: với bà, dường như thế giới không có nếu ta không nhận biết được thế giới; không có thế giới khách quan bên ngoài ký ức con người. Ký ức ở đây không chỉ là cách ta đặt tên hay cách ta hệ thống lại một vũ trụ luôn sẵn có dù có ta hay không có ta ở đây ngắm nhìn nó; ký ức tạo ra vũ trụ, hoặc chí ít có một mối liên hệ hữu cơ với vũ trụ, nói cách khác, phần nào của ký ức mất đi thì phần đó trong vũ trụ cũng bị hút vào một chân không tan biến. Ogawa hẳn chịu ảnh hưởng từ Henri Bergson, ở chỗ ký ức không đơn thuần là quá trình lưu trữ quá khứ, mà còn là quá trình tái tạo hiện tại.

Ogawa rất thích Nhật ký Anne Frank. Ký ức trong tiểu thuyết của bà bị săn lùng cũng không khác gì người Do Thái bị săn lùng trong những cuộc diệt chủng của Đức Quốc xã. Ta có thể hình dung ra một cảnh trong những bộ phim về Thế Chiến II, The Pianist chẳng hạn, khi phát xít ập vào nhà một người nào đó để khám xét mà không báo trước, bắn bỏ con người như thể đấy không phải con người, và tưởng tượng những con người ấy chính là ký ức còn phát xít chính là đám cảnh sát săn đuổi, triệt tiêu ký ức trong tiểu thuyết của Ogawa. Cảnh sát ký ức có nhiệm vụ thiếu đốt đến tàn dư cuối cùng những kỷ niệm, và không chỉ kỷ niệm mà cả những thứ có thể gợi lên kỷ niệm – một tấm hình về kỷ niệm, một cái bóng của kỷ niệm cũng phải bị phá huỷ. Ogawa không có một đoạn miêu tả nào kỹ càng về những tay cảnh sát này – họ là ai? tại sao họ phải làm thế? họ phục vụ cho cái gì?; có khi chính họ cũng không biết, vì chính họ cũng bị tàn phá bởi sự quên. Và cũng như mọi sự đàn áp trên đời, nó không hẳn bắt nguồn từ sự kiêu hãnh hay ngạo mạn, nó bắt nguồn từ nỗi sợ hãi nhiều hơn. Những tay cảnh sát càng khắc nghiệt với ký ức thì dường như càng để lộ nỗi sợ hãi của chính mình; họ sợ những người có ký ức như các chế độ toàn trị sợ hãi việc con người được làm người hoàn chỉnh, liền nghĩ ra rất nhiều biện pháp ngăn con người sống với trọn vẹn phẩm tính làm người. Quên là phi nhân, và bắt một ai đó lãng quên một điều gì đó là phủ định một phần đời họ đã từng sống, đồng nghĩa với phủ định sự tồn tại của họ trên tư cách một con người, cũng không khác gì tàn sát họ. Chống lại ký ức là chống lại nhân tính.

Quên là phi nhân, và bắt một ai đó lãng quên một điều gì đó là phủ định một phần đời họ đã từng sống, đồng nghĩa với phủ định sự tồn tại của họ trên tư cách một con người, cũng không khác gì tàn sát họ. Chống lại ký ức là chống lại nhân tính.

Nhân vật chính, không thể khác được, là một tiểu thuyết gia – một người viết: về lý thuyết, là người chống lại sự quên, nhưng trên thực tế, cô cũng quên, quên cả tiểu thuyết là gì, và cô phải nhọc nhằn bới ra ngôn từ từ tro tàn ký ức để khôi phục lại ý niệm về những câu chuyện. Hành động viết ấy can đảm vì nó không khác gì khoảnh khắc khi người đầu tiên viết văn dù chưa có văn chương. Quá trình viết lần đầu tiên ấy đau đớn, tàn khốc, và ta không biết sẽ nhận lại được cái gì, có xứng với những khốn khổ ta chịu đựng, vì ta đâu biết văn chương là gì hay để làm gì, mà ta vẫn cứ bám vào trong hy vọng và tuyệt vọng.

Trước khi tiểu thuyết bị xoá sổ, cô đang viết một bản thảo về một cô gái bị cái máy chữ của một người đàn ông lấy đi giọng nói. Cô bặt ngôn. (Lại một lần nữa, bệnh câm xuất hiện trong văn chương của những nhà văn nữ châu Á, như người phụ nữ bỗng nhiên câm trong Greek Lessons của Han Kang hay người phụ nữ mất tiếng trong truyện ngắn của Tawada – xem ra bị giam cầm trong ngục tối vô ngôn là ác mộng chung của phụ nữ viết văn.)

Chứng quên trên hòn đảo và bệnh câm trong tiểu thuyết trở thành hai sự suy thoái song song với nhau, một chứng suy thoái trong thế giới hư cấu và một chứng suy thoái trong hư cấu của hư cấu. Chúng bổ nghĩa cho nhau. Giọng nói là thứ cuối cùng còn sót lại trước khi biến mất trên hòn đảo, còn trong cuốn tiểu thuyết của nhân vật, giọng nói là thứ bốc hơi đầu tiên. Hai quá trình ấy so le, trượt từ hai đầu, và rồi gặp gỡ ở trung điểm, khi sự mất và sự quên hợp nhất. Ở ngoài đời, tiểu thuyết gia tan vào hư vô nơi căn hầm cô đã xây lên làm chốn trú ẩn cho một người bạn; trong tiểu thuyết của cô, nhân vật cũng kẹt lại mãi trong một không gian kín, không biến mất nhưng cũng mất hoàn toàn liên lạc với thế giới bên ngoài, không ai thấy cô nữa và như vậy đồng nghĩa với cô đã bị nhổ bật ra khỏi sự hiện hữu.

Ký ức là một thứ dai dẳng – như phỏng theo tên bức hoạ kinh điển của Salvador Dalí. Dù bị đào tận gốc, trốc tận rễ, dù bị giết ngàn lần, ký ức vẫn có những tế bào nổi loạn, chúng ngủ đông khi cần, và vẫn luôn trở lại.

Nhưng ký ức là một thứ dai dẳng – như phỏng theo tên bức hoạ kinh điển của Salvador Dalí. Dù bị đào tận gốc, trốc tận rễ, dù bị giết ngàn lần, ký ức vẫn có những tế bào nổi loạn, chúng ngủ đông khi cần, và vẫn luôn trở lại. Ký ức vẫn tẩu thoát, bằng nhiều cách: những người hiếm hoi không mắc chứng quên tự lắp ra một chiếc thuyền và bỏ trốn – có thể họ đã bỏ mạng dưới sóng biển mênh mông, nhưng cũng có thể họ đã đến được nơi ghi nhớ không là tội; những món đồ bị lãng quên được giấu suốt hàng chục năm trong những bức tượng điêu khắc trong ngôi nhà hoang phế; và khi sự quên đã biến cả hòn đảo thành một vùng tuyết mênh mông trắng, vẫn còn đó một người không quên sống sót, một biên tập viên đã sống nhiều năm trời chui rúc trong căn hầm nhỏ của tiểu thuyết gia. Khoảnh khắc anh sau rốt cũng có thể bước ra ngoài, với bản thảo vẫn còn đó của bạn ở trên tay, hẳn cũng giống như khoảnh khắc người nghệ sĩ dương cầm trong The Pianist ngồi xuống cây đàn trong căn nhà đổ, lần đầu tiên sau bao năm trời thu mình về cõi vô thanh để lẩn khuất khỏi sự càn quét của người Đức, đôi tay anh ngập ngừng gõ lên những phím đầu tiên, mới đầu còn run rẩy, như thể đã quên âm nhạc, nhưng rồi một khi giai điệu đã tuôn chảy, ký ức về âm nhạc lại trở về với anh.

Lắng nghe âm nhạc oai nghiêm trào chảy

từ những tháng năm dài bất tận.

Ôi hãy củng cố cho ta, soi sáng cho ta!

Ta lịm đi trong bóng tối này

Hỡi bình minh đẫm sương ký ức.

Hãy tới đây, ta lệnh cho ngươi, trỗi dậy,

Người với vạn tiếng nói, ngàn đôi mắt!

Ngươi chẳng tới với những dây leo khoe sắc

Mà hiển hiện nơi nội nhãn của ta

Hỡi Ký ức Thiêng liêng nhất!

(Trích dịch từ Ode to Memory – Tụng ca Ký ức)

Hỡi Ký ức Thiêng liêng nhất. Mà phải là Ký ức viết hoa (Divinest Memory). Đó là lời của thi gia Alfred Lord Tennyson. Ngay cả kẻ quên rồi cũng sẽ bị lãng quên. Còn ký ức, ký ức sẽ luôn khải hoàn trở lại.

Bài đăng Tia Sáng số 3/2025

Tác giả

(Visited 128 times, 58 visits today)