Chưa sẵn sàng giao lưu
1. Mở cửa, hội nhập, văn chương Việt Nam chưa sẵn sàng cho giao lưu. Giao lưu đúng nghĩa là đến với nhau qua tinh thần cởi mở toàn diện. Tìm hiểu, học hỏi và thâu thái nhau.
Tạp chí Văn hóa Dân tộc của Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam tháng ra một kì gồm nhiều bộ môn khác nhau, chứ không dành riêng cho văn học. Mà hầu hết được viết bằng tiếng Việt.
Tạp chí Văn nghệ Dân tộc và Miền núi (sau đó đổi tên là Văn nghệ Dân tộc) là phụ trương của báo Văn nghệ, đã chết ba năm qua hết cơ may sống lại. Thì lấy đâu cơ hội giao lưu để có thể gọi là hiểu biết lẫn nhau.
Trong lúc văn chương dân tộc thiểu số không phải không có cái để đọc, để bàn.
Nhìn rộng ra Đông Nam Á, dù trên bình diện kinh tế và chính trị chúng ta đã mở, riêng văn học của khối này vẫn đóng. Trở về từ Bangkok, tôi đã dịch và giới thiệu ba tác giả nhận Giải thưởng Văn học Đông Nam Á – 2005 năm đó, viết tiểu luận “Văn học Đông Nam Á trong tâm thế hậu thuộc địa” in trên Tia sáng số chuyên đề về văn học Đông Nam Á; nhưng tìm một người để viết về văn học Đông Nam Á đương đại thì, chịu! Các nhà văn nhận giải về đến quê nhà, tự đánh mất hết quan hệ cần thiết với các đồng nghiệp nước bạn. Trong buổi giao lưu với Hội Nhà văn và sinh viên văn chương Thái Lan, tôi nói: Trong chín anh chị em được coi là đại biểu xuất sắc nhất của văn chương đất nước mình năm nay, có ai biết đến nhau? – Không ai cả! Không biết tên tuổi hay sáng tác của nhau, thì làm gì có chuyện đọc nhau. Văn học các nước Đông Nam Á tự xem thường mình và xem thường lẫn nhau. Độc giả Việt Nam, Thái Lan, Indonesia có thể đọc các tác giả Tây Âu, Hoa Kỳ, biết nhiều về văn học Nga hay văn học Nhật Bản, thậm chí Hàn Quốc, nhưng văn học các nước trong khu vực thì – không! Văn học Đông Nam Á vẫn còn là vùng trũng của văn học thế giới.
2. Chúng ta đã có nỗ lực san lấp vùng trũng kia chưa?
Câu trả lời nghiêm túc nhất là: chưa.
Hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài tổ chức đầu năm 2010 khởi động đầy hứa hẹn, nhưng ở đó biểu hiện sự lúng túng thấy rõ. Không có ai hiểu ai. Bởi chúng ta chưa chuẩn bị cho sự hiểu kia(1). Về nền văn học ta lẫn văn học các nước bạn.
Báo Văn nghệ, Văn nghệ Trẻ, tạp chí Nhà văn hay tạp chí Thơ là tiếng nói chính thống chưa sẵn sàng ở tư thế chuẩn bị đó. Sự chuẩn bị đáng lẽ phải có, và có từ rất lâu. Phân mục quan trọng không thể thiếu của báo chí là thông tin tổng hợp về “Đời sống văn học [trong nước và nước ngoài] trong tuần”, “Đời sống thơ trong tháng”,… vẫn cứ là khoảng trắng. Trong khi chính nó, nếu làm tốt và hay, sẽ cung cấp cho người đọc cái nhìn tương đối bao quát, chuẩn xác, các nhận định sắc sảo và công bằng về tác phẩm, tác giả, sự kiện, trào lưu… văn học mới và đáng giá nhất qua mỗi kì. Vậy mà báo, tạp chí của Hội Nhà văn Việt Nam đã bỏ qua công việc căn bản ấy, thì lấy đâu sự quán xuyến đời sống văn học trong nước và quốc tế trong năm hay một thời đoạn? Sự thiếu khuyết này buộc người yêu văn chương, nhà báo, nhà văn và cả nhà phê bình tự bươn chải trong biển cả mênh mông của thời sự văn học. Từ đó dẫn đến hiểu biết mơ hồ, bên cạnh các phát ngôn [nếu có] sai lạc, đầy bất cập.
Thử tưởng tượng nếu báo Văn nghệ mỗi kì dành một trang cho Đời sống văn học trong nước và thêm trang nữa cho Thời sự văn học quốc tế! Và tưởng tượng đầy mơ mộng thêm – mang tính chiều sâu và chuyên nghiệp hơn: Các trào lưu văn chương từ cổ điển, lãng mạn, tượng trưng… cho đến chủ nghĩa mới nhất của văn học đương đại như thơ tân hình thức, hậu hiện đại… được giới thiệu đến nơi đến chốn. Lí thuyết, phê bình, sáng tác cả trong nước lẫn nước ngoài. Mỗi trào lưu 5, 6 kì như vậy. Mỗi kì được dành 5, 6 trang như thế. Hỏi điều gì sẽ xảy ra?
Chưa nói chuyện văn học nước nhà khởi sắc, điều chắc chắn là các sinh viên ban văn, độc giả yêu văn học, và cả người trong cuộc văn chương hôm nay sẽ hết quay lưng với báo chí chuyên ngành như đã. Bởi ít ra, nếu sự thể xảy ra như thế, họ còn có cái gì đó để theo dõi, đáng học và đáng thưởng thức. Chứ không phải mấy bài điểm sách nhạt nhòa mà tác phẩm được chọn đầy cảm tính với cảm tình, vài ba tiểu luận có thể đặc sắc nhưng tản mác, còn thơ với truyện ngắn hay bút kí thì họ có thể tìm đọc bất kì đâu cũng được, chẳng phải cậy đến giới thiệu của báo chuyên.
Chỉ thế thôi chúng ta mới dám nói đến chữ hi vọng về một chuyển động mới của nền văn học nước nhà!
Viết nhân Đại hội Hội Nhà văn VN, 8-2010
——————-
(1) Ví dụ dễ thấy nhất, Hội nghị [để] quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài, nhưng ở văn học trẻ, – hẹp hơn, về thơ trẻ – không có tham luận nào nêu được với đại biểu quốc tế thơ trẻ Việt Nam hôm nay có bao nhiêu dòng, mỗi dòng thể hiện được gì, và đâu là tác giả và tác phẩm tiêu biểu đáng chú ý. Còn bên văn học cổ điển, đại đa số đại biểu biến nó thành hội thảo về văn học dịch, bắt bẻ lối dịch này, cách chuyển ngữ kia đạt với chưa đạt. Mà không “quảng bá” thêm tác giả hay tác phẩm nào (kể cả văn học dân tộc thiểu số) sáng giá đáng được dịch mà độc giả nước ngoài chưa biết đến, ngoài vài tên tuổi quen thuộc như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…