Công trình chính là công nghệ và văn hóa
Norman Foster là KTS vĩ đại của nền kiến trúc công nghệ cao toàn thế giới. Ông không chỉ góp phần to lớn vào việc tạo diện mạo cho kiến trúc cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI mà còn của nền nghệ thuật kiến trúc ngày mai.
Rời khỏi trường học năm 16 tuổi, ông làm việc cho một kho bạc ở Manchester trước khi gia nhập không quân Hoàng gia Anh. Sau đó ông trở thành sinh viên ngành kiến trúc và thiết kế đô thị Trường Đại học Tổng hợp Manchester. Một thời gian sau, ông nhận được học bổng Henry cho khóa học thạc sĩ ở trường Yale. Tại đây ông đã gặp người đồng sự hết sức quan trọng cho khởi đầu sự nghiệp vĩ đại của mình, đó là Richar Rogers. Vào năm 1962, ông quyết định thành lập nhóm thiết kế “Team 4”- với Richar Rogers và Sue Rogers. Họ đã nhanh chóng đi theo một trường phái thiết kế hết sức hiện đại với các công nghệ kỹ thuật cao được gọi là trường phái High-tech. Sau khi nhóm “Team 4” chia tay, năm 1967 Foster và Cheesman thành lập tập đoàn Foster, sau này đổi tên thành Foster và Cộng sự. Năm 1968, ông bắt đầu hợp tác lâu dài với Richard Buckminster Fuller ở Mỹ cho đến khi Fuller mất vào năm 1983. Những dự án hai người hợp tác thực hiện đã trở thành điển hình và là nhân tố thúc đẩy việc công trình phải gắn với môi trường, không làm tổn hại đến môi trường. Một trong những dự án đó là nhà hát Samuel Beckett.
Foster có rất nhiều công trình lớn tại Anh, công trình nổi tiếng nhất là trụ sở chính của Công ty bảo hiểm Willis Faber &Dumas ở Ipswich với 1200 nhân viên.
Công trình hết sự hiện đại này là một minh chứng cho kỹ thuật khoa học tiên tiến của thời đại và đã được coi như một kỳ quan đặc biệt và là niềm tự hào của thành phố. Mặt đứng công trình được phủ toàn kính, đối ngược với khung cảnh và không gian của những công trình cổ kính chung quanh. Những ngôi nhà cổ soi bóng trên nền kính long lanh. Là một tấm gương phản ánh toàn bộ các hoạt động của khu vực vào ban ngày nhưng lại hoàn toàn trong suốt vào ban đêm, bộc lộ không gian nội thất gồm hai tầng trên làm văn phòng và một bể bơi ở tầng dưới. Đồ án này được xem như một hình mẫu cho sự đáp ứng cũng như hiệu quả về mặt môi sinh. Và khi ánh sáng màu hoàng hôn hắt ra từ những mảnh kính của công trình thì quả là một vẻ đẹp huy hoàng.
Ngay từ những công trình đầu tiên ông thiết kế đã phản ánh rõ nét việc hướng tới một nền kỹ thuật hiện đại và công nghệ cao. Phong cách thiết kế của ông đã mở ra một trường phái kiến trúc mới. Trường phái coi trọng việc dùng công nghệ và kỹ thuật cao phục vụ nhân loại. Ông đã từng nói: “Kiến trúc gắn với con người và với chất lượng sống. Kiến trúc không thể tự tồn tại tách rời. Chúng ta phải tạo nên những công trình sao cho đó chính là công nghệ và văn hóa”.
Ngày nay Norman Foster và Cộng sự triệt để sử dụng mối liên kết chặt chẽ giữa hệ thống máy tính điều khiển và quy luật vật lý cơ bản, chẳng hạn như sự đối lưu không khí nhằm tạo ra một tổ hợp chặt chẽ, thông minh hiệu quả cho công trình như nhà số 30 phố Mary- Hay còn gọi là “Quả dưa chuột” vì hình dáng độc đáo của nó. Toàn bộ mặt đứng của công trình với thiết kế đặc biệt, độc đáo đã có thể tự làm mát và làm ấm không khí mà không cần bất cứ một năng lượng nhân tạo nào.
Ông là kiến trúc sư thứ hai của nước Anh được giải Stirling hai lần. Lần thứ nhất là Nhà để máy bay Mỹ ở Bảo tàng Chiến tranh đế quốc tại Duxfosd, năm 1998. Lần thứ hai là tòa nhà 30 phố Mary, năm 2004. Và rất nhiều giải thưởng lớn, đặc biệt là Giải thưởng Kiến trúc Pritker, năm 1999.
Foster được nhân loại biết đến như một thiên tài trong nền kiến trúc thế giới. Các nhà phê bình nhận xét: Ý tưởng thiết kế của ông còn hơn cả sự không tưởng, nó như một giấc mơ kỳ diệu về không gian. Gần đây nhất ông giành giải thưởng Aga Khan, một trong những giải thưởng lớn về kiến trúc thế giới cho thiết kế Trường đại học Tổng hợp Dầu khí và kỹ thuật ở Bandrar Seri- Malaysia.
Foster có một cuộc sống hôn nhân không phẳng lặng. Ông đã mất người vợ đầu. Bà để lại cho ông bốn người con trai. Sau đó ông lần lượt kết hôn với hai người phụ nữ nổi tiếng khác. Ông có một gia đình với cả thảy 6 người con. Ông thường lái máy bay trực thăng riêng từ nhà đến Công ty ở London.
Norman Foster đã được Hoàng gia Anh phong tặng tước Hiệp sĩ vào năm 1990. Năm 1997 nhận được Huân chương danh dự của Hội đồng Anh. Năm 1999, được phong Nam tước danh dự vùng sông Thame.