Đọc Laszlo Krasznahorkai ở Việt Nam: Từ một trải nghiệm trên giảng đường
Tôi không quá thất vọng vì việc đọc Krasznahorkai lại chật vật, thậm chí có vẻ như không đi đến đâu như vậy. Xét đến cùng, sinh viên của tôi cũng là hệ quả của việc dạy văn, đọc văn mà dù rất cố gắng đổi mới sách giáo khoa hay cấu trúc đề thi, những thứ văn chương lớn vẫn cứ nằm ngoài tầm đón nhận của các em.

1. Khi Viện Hàn lâm Hoàng gia Thụy Điển công bố Laszlo Krasznahorkai, nhà văn Hungary, là chủ nhân của giải Nobel Văn chương năm nay, quyết định này hầu như không gây ra bất cứ băn khoăn, tranh cãi nào từ phía các nhà phê bình hay những độc giả còn muốn chấp nhận sự đọc của mình bị thử thách bởi thứ văn chương được xem là đặc tuyển. Không phải vì Krasznahorkai từ nhiều năm nay đã được xem là ứng cử viên sáng giá nhất cho giải thưởng này mà bởi ông nằm trong số rất ít những người có quyền năng làm thay đổi văn học. Giải Nobel Văn chương trong lịch sử, trớ trêu thay, lại thường bỏ lỡ cơ hội để vinh danh những tên tuổi này, do vậy, nó thường xuyên bị hồ nghi như một thiết chế thủ cựu. Trước đó hai năm, Viện Hàn lâm Hoàng gia Thụy Điển cũng nhận được sự hài lòng của giới phê bình và công chúng văn học khi trao giải Nobel cho nhà văn Na Uy Jon Fosse.
2. Khác với Fosse, người chỉ thật sự hiện diện qua các bản dịch ở Việt Nam sau khi giải Nobel Văn chương thuộc về ông, Krasznahorkai đã được giới thiệu ở Việt Nam trước đó qua hai tiểu thuyết Vũ điệu quỷ Satan (tiểu thuyết đầu tay của ông) và Chiến tranh và chiến tranh. Ông có một nhóm những độc giả Việt Nam hâm mộ, những người không chỉ có thể tiếp cận ông qua các bản dịch tiếng Việt mà còn qua các bản dịch tiếng Anh vốn không khó kiếm ở thời điểm này. Những độc giả tinh hoa dẫu không nhiều ấy có thể xem một chỉ dấu lạc quan của văn hóa đọc hiện nay đồng thời là một thách thức đối với bản thân văn học Việt Nam: những độc giả cừ khôi nhất vẫn đang ở đó và với kinh nghiệm thẩm mỹ khi đọc những nhà văn phi thường của văn học thế giới, họ có quyền đòi hỏi nhiều hơn ở những người cầm bút trong nước. Nhưng chắc chắn ông không phải là nhà văn của số đông, cho dù ngay sau khi giải Nobel được công bố, những tiểu thuyết vốn dĩ bán rất chậm của ông ở thị trường Việt Nam bỗng cháy hàng. Và rất nhanh chóng, trên nhiều trang văn chương ở Việt Nam, lập tức đã có ngay nhiều bài giới thiệu và bình luận, cứ như thể, nhà phê bình ở Việt Nam cũng đã ở sẵn đó, trong khi thực tế, họ còn đi sau cả những độc giả lặng thầm trên. Thời đại của Internet và của AI khiến cho việc về một nhà văn vốn ít được đọc cũng trở thành một công việc chạy kịp tiến độ.
Thứ văn chương của Krasznahorkai làm người ta tin vào quyền năng của nghệ thuật. Đó là quyền năng của một thứ văn chương bi quan đến tuyệt vọng nhưng thường thứ văn chương như thế lại có khả năng thấu thị và ít lừa mị con người hơn cả.
3. Nhưng cũng chính sự hiện diện của một nhà văn như Krasznahorkai ở thời AI lên ngôi này lại trở nên cần thiết. Trước hết, ở phương diện dịch thuật. AI có thể sẽ ngày càng thành thục, mượt mà khi dịch những văn bản thông tin hay kể cả dòng văn học đại chúng thì những nhà văn viết như bày một cuộc chơi ngôn từ công phu, tinh vi, đột phá vẫn cứ là thứ văn chương cần đến trải nghiệm người trong dịch thuật. Việc dịch Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ của Bùi Giáng hay Trần Dần, theo tôi, vẫn không phải là công việc xử lý dữ liệu. Sự chơi ngôn từ của những tác giả ấy đòi hỏi dịch giả phải có những cảm giác ngôn ngữ rất cá nhân và cả những chiến lược chuyển ngữ không có tiền lệ. Tương tự, đây mới là lúc ta cần thúc đẩy việc dịch sang tiếng Việt những nhà văn như Krasznahorkai hay xa hơn, James Joyce, Marcel Proust, Samuel Beckett… bởi chính những tác giả “khó đọc” ấy mới là những người có thể gợi ý nhiều nhất để nhà văn Việt Nam thay đổi hình dung về sự viết, tìm kiếm những khả thể biểu đạt khác tiềm tàng trong tiếng Việt.
Thứ hai, ở phương diện sự đọc, khi AI có thể đọc thay, tổng hợp thay, thậm chí đưa ra kết luận thay con người, khoái cảm mà một lối viết như Krasznahorkai đem đến là món quà chỉ dành cho một người thực sự đọc. Đương nhiên, ở thời đại này, chưa đọc Krasznahorkai, người ta vẫn có thể có ý niệm về tiểu thuyết của ông, thậm chí nói về nó như thể mình đã đọc, rằng văn chương của ông chứa đựng cảm thức tận thế, được thể hiện bằng những câu văn miên man, thậm chí kéo dài hết cả một cuốn tiểu thuyết, những thủ pháp trần thuật giàu tính điện ảnh. Nhưng nói như thế cũng có nghĩa là mới chỉ quét trên bề mặt văn bản của Krasznahorkai – việc mà AI sẽ làm tốt và làm nhanh được. Khoái cảm của sự đọc chỉ đến trong sự nhẫn nại, tập trung, kháng cự lại trạng thái phân mảnh hóa và nhìn lướt mọi thứ của thời đại kỹ trị mới này. Nói như Trần Dần, “một VIẾT dãi dàu sinh một ĐỌC dãi dàu.” Khoái cảm từ sự dãi dàu sẽ có những khía cạnh đặc biệt mà sự dễ dàng không thể đem đến.
4. Sau ngày giải Nobel Văn chương được công bố, tôi mang một văn bản ngắn của Krasznahorkai lên giảng đường của khoa Văn để đọc cùng sinh viên. Khoa Văn trong một trường đại học vốn thường được kỳ vọng là nơi có thể bồi dưỡng một lớp độc giả tinh hoa mà theo lý thuyết, nền văn học ở thời đại nào cũng cần đến. Cố nhiên, tôi hiểu không phải tất cả sinh viên đều quan tâm đến thời sự văn học, mà nếu có biết thông tin về giải Nobel Văn chương, không phải sinh viên nào cũng nảy sinh sự tò mò về Krasznahorkai. Nhưng tôi nghĩ, nhiều khi ý nghĩa, thậm chí trách nhiệm của một giảng viên văn học, nằm ở điều này: phải mang đến ít nhất một thứ gì đó thật hay, thật đẹp, khơi dậy mường tượng, suy ngẫm và khao khát trong mỗi giờ học, cho dù có thể chỉ đánh động được một vài em. Văn bản mà tôi lựa chọn vốn được đăng trên mục “Truyện chớp” của tờ The New Yorker và sau này là văn bản cuối cùng của tập The World Goes On (Thế giới tiếp diễn, 2024) của Krasznahorkai nên thường được mặc định là một văn bản truyện. Nhưng thật ra rất khó xếp nó gọn gàng vào một thể loại định hình nào:
Tôi sẽ để lại mọi thứ, những thung lũng, những ngọn đồi, những con đường và những con giẻ cùi trong những khu vườn, để lại những vòi nước và những cha xứ, thiên đường và trần gian, mùa xuân và mùa thu, để lại những lối về, những buổi tối trong căn bếp, ánh mắt yêu thương cuối cùng và mọi con đường rùng rợn dẫn vào thành phố, để lại hoàng hôn dày phủ trên mặt đất, sức nặng, hy vọng, say mê và yên bình, để lại những người thân yêu và gần gũi, mọi thứ cảm động, bàng hoàng, thích thú và thăng hoa, để lại sự cao quý, lòng nhân từ, sự dễ chịu và cái đẹp ma quái, để lại mỗi chồi non, mỗi sự ra đời và tồn tại, để lại câu thần chú, sự bí ẩn, những khoảng cách, sự bất tận và cái ngây ngất của vĩnh cửu: bởi tôi sẽ rời bỏ Trái đất này và những vì sao kia, bởi tôi sẽ chẳng mang theo thứ gì từ nơi này, bởi tôi đã nhìn vào những gì đang đến, và tôi chẳng cần gì ở nơi đây.
(“Chẳng cần gì nơi đây” – bản dịch của Nguyễn Huy Hoàng)

Đúng như dự cảm, văn bản chỉ khoảng 200 chữ này làm khó phần lớn sinh viên của tôi. Việc đọc lướt bằng mắt khiến nhiều em ngay từ đầu đã có cảm giác như lạc vào một mê cung (dù thật ra mê cung ấy chỉ được cấu tạo bằng một câu văn). Tôi đã đề nghị các em thử đọc thành tiếng thầm văn bản trên rồi thử rút gọn nó lại thành một câu văn cô đọng, kiểu như “Tôi sẽ để lại mọi thứ bởi tôi chẳng cần gì ở nơi đây,” để xem cái gì đã đánh mất hoàn toàn khi ta thực hiện hành động giản lược ấy. Sẽ mất hết nhịp điệu – một thứ nhịp điệu chậm rãi, từ tốn và một giọng điệu, tưởng như nhẹ nhõm mà vẫn phảng phất bi cảm, thứ vẫn cảm nhận được trên văn bản dịch. Và hơn hết, như có em đã nhận xét: khi ta tưởng như có một thông điệp rõ ràng trong văn bản rút gọn, thông điệp ấy cũng trở nên vô nghĩa. Hai trăm chữ của Krasznahorkai đòi hỏi người ta phải bỏ cả hơn mười phút chỉ để cố nắm bắt âm, nhịp, không khí của nó – khoái thú mà nó đem đến có thật sự đáng giá?
Nhưng câu chuyện sư phạm trở nên khó khăn hơn đối với tôi khi đề nghị sinh viên tưởng tượng tình huống phát ngôn của văn bản trên. Văn bản ấy, trong hình thức cô đọng của nó, đã toát lên thứ mà Viện Hàn lâm Hoàng gia Thụy Điển xem như đặc trưng nổi bật trong sáng tác của Krasznahorkai: cảm thức tận thế. Có lẽ không chỉ sinh viên của tôi mà với đa phần người Việt Nam chúng ta, coi tận thế như một ý niệm để suy tưởng là một cái gì đó rất xa lạ trên phương diện trí thức. Chúng ta bận tâm đến cái hằng ngày, cái cụ thể, cái thiết thực. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong những trang nhật ký cuối đời có một câu mà để viết ra nó, tôi nghĩ, hẳn ông đã phải rất đau đớn. Đại ý, người Việt Nam là dân tộc có thể biết mai là tận thế thì hôm nay vẫn cứ phải bận bịu mưu sinh để có cái gì ăn. Bởi kiểu sống và kiểu nghĩ ấy, hai trăm chữ của Krasznahorkai trở thành thứ gì đó rất bí hiểm đối với đại đa số sinh viên trong lớp: các em ít được khơi dậy những băn khoăn về cái siêu nghiệm, về những ý nghĩa siêu vượt thực tại hằng ngày, những thứ có thể không biến thành cái ăn, cái mặc nhưng chúng làm cho sự sống của con người trở nên có ý nghĩa. “Nếu giả sử ngày mai là tận thế, ta sẽ nói gì với thế giới mà ta từng gắn bó?” Tôi đã hỏi sinh viên của mình như thế. Và cũng là tự hỏi mình.
Tôi không quá thất vọng vì việc đọc Krasznahorkai lại chật vật, thậm chí có vẻ như không đi đến đâu như vậy. Xét đến cùng, sinh viên của tôi cũng là hệ quả của việc dạy văn, đọc văn mà dù rất cố gắng đổi mới sách giáo khoa hay cấu trúc đề thi, những thứ văn chương lớn vẫn cứ nằm ngoài tầm đón nhận của các em. Thiếu một quan niệm có chiều sâu về việc đọc văn bản nghệ thuật, sách giáo khoa hay đề thi chỉ quanh quẩn những yêu cầu về việc nắm bắt nội dung, chỉ ra vài biện pháp tu từ, coi văn bản văn chương nào cũng phải dạy vài ba kinh nghiệm thường nghiệm. Thiếu một triết lý nhân văn trong giáo dục, ngay cả đến môn văn cũng không còn là môn học dành cho sự tưởng tượng hay suy tư. Cái siêu nghiệm bị xem như cái thần bí, là cái không có thật; cần phải tránh những cảm xúc bị xem là tiêu cực mà văn chương có thể dẫn dắt. Như nỗi muộn sầu tận thế. Đã thế, trong thời đại mà tiến độ, tốc độ là áp lực trong mọi hoạt động, để nhẩn nha, chậm rãi với một thứ văn chương như Krasznahorkai phải chăng là “thú tiêu khiển của những kẻ nhàn rỗi” đơn thuần, như cách nói của Hoài Thanh về những tìm tòi theo khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới?
5. Tôi nghĩ Viện Hàn lâm Hoàng gia Thụy Điển có lý khi cho rằng thứ văn chương của Krasznahorkai làm người ta tin vào quyền năng của nghệ thuật. Đó là quyền năng của một thứ văn chương bi quan đến tuyệt vọng nhưng thường thứ văn chương như thế lại có khả năng thấu thị và ít lừa mị con người hơn cả. Điều đó được thể hiện ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông – Vũ điệu quỷ Satan (1985). Cuốn tiểu thuyết được sáng tác và lấy bối cảnh của thời hậu kỳ Chiến tranh Lạnh cách đây 40 năm, mỉa mai thay, chẳng khác mấy thực tại của thế giới đương đại. Với những câu văn cố tình lê thê, rậm rạp, Krasznahorkai đã mô tả cái rệu rã của cả cảnh tượng lẫn con người. Như những khuôn hình cận cảnh trong điện ảnh, lời trần thuật của ông chậm rãi làm nổi bật quá trình mục ruỗng lương năng ở con người vốn bị giam hãm trong một mô hình xã hội đầy ảo tưởng duy ý chí. Không khác gì các nhân vật trong vở Chờ Godot của Beckett, nhân vật của Krasznahorkai chỉ còn sống trong sự chờ đợi một nhà tiên tri giả và để rồi bị bỏ rơi ở trạm quá cảnh lên thiên đường. Cái cơ chế làm cạn kiệt sự chờ đợi của con người vào một tương lai không bao giờ đến và rốt cục bị bỏ mặc mà không hay đầy bất nhẫn ấy thực ra vẫn đang vận hành thế giới mà chúng ta đang sống. Lời cảnh báo của văn chương dẫu vang lên sớm nhưng hình như vẫn luôn được hiểu muộn. Rất muộn.
Và cũng chỉ trong cảm thức về sự bi quan, trong ám ảnh về tận thế, văn chương nghệ thuật mới phát lộ cho ta thấy những khoảnh khắc đẹp đẽ của cõi sống này. Đọc Krasznahorkai, tôi cứ nhớ đến những câu hỏi ngầm nhưng đầy khắc khoải trong tác phẩm của Chekhov: Thế giới đẹp là vậy nhưng chúng ta đã sống như thế nào đây? Chúng ta đã làm gì với thế giới này? Tại sao lại phá hủy tất cả? Quyền năng của nghệ thuật là vậy: dẫu có thể ngày mai tận thế thật, ngày hôm nay xin hãy dành thời gian và đủ dũng cảm để đối diện với những câu hỏi như thế.□
Bài đăng Tia Sáng số 20/2025
