Đường Lâm ở Hà Tĩnh và giao lộ Đông Tây từ Biển Đông đến Mekong (Kỳ 2: Giao lộ đông tây từ Biển Đông đến Mekong)
Việc xác định được vị trí của Đường Lâm và châu Phúc Lộc có một vai trò rất quan trọng trong việc tái nhận thức lịch sử thế kỷ VI-X, thậm chí soi sáng thêm nhiều góc khuất về lịch sử giao thông, lịch sử đối đầu- và giao thương giữa Đường và Khmer.
Một góc huyện Hương Khê, Hà Tĩnh ngày nay. Nguồn: http://huongkhe.hatinh.gov.vn
Nhưng trước tiên, ta cần xác định rõ hơn con đường từ Hoan Châu đi Đường Lâm- Phúc Lộc đã diễn ra như thế nào. Giã Đam ký ghi: từ Hoan Châu đi hai ngày đến huyện Nhu Viễn châu Đường Lâm.. Thái Bình hoàn vũ ký ghi: từ Hoan Châu đi hai ngày dọc theo bờ biển dài 102 dặm (51km) là đến châu Phúc Lộc. Với các sử liệu này, Đào Duy Anh nhận định rằng: vị trí của huyện Nhu Viễn và châu Đường Lâm phải ở miền Hoành Sơn, châu Phúc Lộc gồm cả miền Nam Hà Tĩnh và miền Quy Hợp và Ngọc Ma ở phía Tây của dãy núi Hoành Sơn. Đại Nam nhất thống chí ghi: huyện Hương Sơn (tỉnh Hà Tĩnh) đời Đường là châu Lộc Phúc. Lộc Phúc chắc nhầm từ Phúc Lộc, mà ngay ở dưới ghi việc năm 1868 vẫn còn bảo lưu tổng Phúc Lộc, cùng các tổng Hương Khê, Quy Hợp, Châu Lễ, Phương Điền. Nếu thế có thể nghĩ đến chuyện Hương Sơn ngày nay chính là huyện Nhu Viễn – huyện lị của châu Phúc Lộc ngày xưa. Ngày nay, tính từ thương cảng cửa Hội lên Phố Châu là 35 km, đến Ngàn Phố là trên 40 km. Thời xưa đi hai ngày là cũng có lý. Còn nếu theo đường dọc biển từ cửa Hội xuôi về cửa Nam Giới (sông Hạ Vàng, thành phố Hà Tĩnh nay) thì là 30 km. Còn Đường Lâm là huyện duyên hải gồm bốn huyện Can Lộc, Hà Tĩnh, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh ngày nay.
Giới hạn của huyện Nhu Viễn đến đâu? Nếu tính theo ranh giới hiện nay thì là gồm ba huyện: Hương Khê, Vũ Quang, Hương Sơn và phần đất của Lào, vì các sử liệu đời Đường vẫn ghi nơi đây có nhiều người Man Lạo. Muốn hiểu thêm địa giới của Nhu Viễn đến đâu trên đất Lào ngày nay thì ta phải khảo thêm về giao thông ở khu vực này. Từ Hoan Nghệ sang Lào có ba đường: 1/ Diễn Châu/ hoặc Vinh – Đô Lương- lên Mường Xén (Kỳ Sơn) là tuyến lớn nhất; 2/ tuyến Hồng Lĩnh/ Can Lộc- Hương Sơn- Ngàn Phố- đèo Keo Nưa; 3/ tuyến Kỳ Anh hoặc Quảng Trạch (Quảng Bình) đi Tuyên Hóa sang Thakhek (Lào). Hai tuyến sau từ bờ biển Đông đến bờ sông Mekong chỉ trên 100 km. Có lẽ những cung đường này kế thừa từ những con đường cổ xưa. Đại Nam nhất thống chí ghi: tỉnh Nghệ Tĩnh “phía Tây thông sang Ai Lao, phía Nam đến bể, … Thượng du thì có các đồn Hà Trại, Hà Tân, Quy Hợp ngăn được người Man Lạo. Phòng giữ mặt bể thì có Cửa Hội, Cửa Sót, Cửa Nhượng”. Cửa Sót là cửa Nam Giới thế kỷ X. Cửa Nhượng là cửa biển Cổ La- Kỳ La từ thế kỷ VII- XI.
Tuyến đường xuyên lục địa: biên giới giữa Đường và Chân Lạp
Đây có thể là những dấu hiệu cho thấy một mô hình trao đổi thượng hạ – nguồn ở vùng Thanh Nghệ. Các cảng vùng Nghệ – Tĩnh nối liền tuyến buôn bán “xuyên lục địa” thông qua vùng Nam Lào và Chân Lạp. Từ thế kỷ X, thương nhân từ Nghệ An, đã qua ải Hà Trại ở dãy Khai Trướng (Khai Môn, cửa khẩu Cầu Treo?) theo đường sông Mekong xuống Băn Thăt để đi vào kinh đô Angkor của Chân Lạp. Thậm chí, con đường “trầm hương” (香道) thượng hạ nguồn còn hình thành sớm hơn – khi Đại Đường đặt các thương cảng Diễn-Hoan- Phúc Lộc vào nút cuối quan trọng của đế chế thương mại ở phương Nam. Có thể khi bị chặn lại bởi Hoành Sơn, cùng một Lâm Ấp trấn giữ kín bờ biển, nhà Đường đã tìm đường lên nguồn tìm lối ra Mekong để xuôi xuống Angkor. Tìm hệ thống bản đồ về thời Đường, ta thấy chính ở chỗ Đường Lâm- Phúc Lộc này, bản đồ đế chế phình ra, trải từ bờ biển Phúc Lộc cho đến bờ sông Mekong. Trong bản đồ, Đường Lâm- Phúc Lộc- Hoan Châu chiếm vai trò như một mắt xích tiền tiêu trong hệ thống thương mại liên bang quốc, nối liền các bờ biển của nhà Đường ở Giao Châu với hệ thống thương cảng duyên hải khắp nơi ở Đông Á- Đông Nam Á, và trên đất liền từ Mekong đi xuống Angkor của đế chế Khmer hùng mạnh.
Bản đồ mạng lưới thương mại đế chế Khmer, K. Hall (1985, p. 188).
Chú thích: Bổ sung thêm cứ liệu từ 3 tuyến giao thương thượng hạ nguồn tại Phúc Lộc – Hoan Châu – Đường Châu nối liền với dòng Mekong theo trục Đông- Tây, chiều dài đường 2 tuyến từ Đường Lâm dài khoảng 100 km, và tuyến Thị Nại qua thượng nguồn sông Côn sang bên Khmer.
Điều này phù hợp với việc Tân Đường thư (1060) ghi rằng, nhà Đường có bảy lối lớn đi khắp nơi, trong đó An Nam chiếm hai lối, một lối thông từ An Nam sang Thiên Trúc, một lối từ Quảng Châu đi sang các biển man di. Sở dĩ Đường chỉ có lối này là đường bộ qua Tây Trúc vì khi đó, phía Tây Đường bị cách bởi Thổ Phồn và Nam Chiếu. Lối đi này được mô tả kĩ hơn như sau: “từ Hoan Châu đi về phía Tây Nam mất ba ngày, đi qua đỉnh Vụ Ôn/ Vụ Thấp [núi Giăng Màn, núi Vụ Quang, cửa khẩu quốc tế Cầu Treo: 18o25’23’N 105o14’52E], lại đi ba ngày nữa đến huyện Nhật Lạc [Ban Lakxao] của Đường Châu, lại đi qua sông La Luân [?, 18o05’13’N-105o02’33E] và núi Thạch Mật [?, 17o59’30’’N- 104o45’00’E] của động Cổ Lãng [thuộc Đường Châu], ba ngày thì đến huyện Văn Dương của Đường Châu [Nakai, 17o33’41’N-105o08’49E]. Lại đi qua khe Ly Ly [?, 17o33’06’N – 105o09’03E]*, bốn ngày thì đến huyện Toán Đài [Thakhek] của nước Văn Đan, lại đi ba ngày nữa đến ngoại thành Văn Đan [Kaeng Krabao], lại một ngày thì đến nội thành [Mukdahan- Savannakhet], [nước ấy] có chỗ còn gọi là Lục Chân Lạp, phía Nam là Thủy Chân Lạp. Lại phía Nam đến Tiểu Hải [Biển Hồ- Tonlesap], phía Nam là nước La Việt, lại về Nam nữa thì đến biển lớn”. Từ Hoan Châu đến đô thành của Lục Chân Lạp là mất 17 ngày đường bộ.
Tư liệu mới này cho phép hình dung một châu mới trong bản đồ hành chính nhà Đường, chưa được các sử gia hiện đại nhắc đến. Đó là Đường Châu (棠州), nằm ở phía Tây và Tây Nam của Hoan Châu và Phúc Lộc Châu. Đường Châu có hai huyện trực thuộc là huyện Nhật Lạc và huyện Văn Dương, số lượng bằng châu Phúc Lộc. Có lẽ nhà Đường coi đây là châu ki mi. Cung đường mà từ Hoan Châu (Cửa Hội) đi Lục Chân Lạp là phải xuyên qua núi Khai Màn (đồn Quy Hợp), tức qua huyện Nhu Viễn châu Phúc Lộc, nếu đi từ Đường Lâm lên (từ thành phố Hà Tĩnh nay) thì đường đi chênh nhau 10-15 km. Nếu tính đơn giản, thì ranh giới của châu Phúc Lộc (đi từ sông Lạc, huyện Đường Lâm/ thành phố Hà Tĩnh nay) qua Khai Màn (Hương Sơn) đến huyện Nhật Lạc của Đường Châu là mất khoảng sáu ngày đường. Sử liệu không nói là đi đến ranh giới Đường Châu hay là trung tâm huyện lị Nhật Lạc, ta có thể trừ đi một quãng thời gian/ không gian còn khoảng 4,5 ngày đến sáu ngày đường. Nếu tính mỗi ngày đi được 15 km hoặc 20km (đường núi) thì ranh giới dao động trong khoảng 67.5 km – 90km, và 90km- 120 km. Trong khi đường đo trên không ảnh hiện tại, thì khoảng cách hơn 130 km, còn chiếu thẳng từ thành phố Hà Tĩnh sang đến bờ sông Mekong là 105 km đường chim bay.
Điểm nóng giữa các đế chế: sự trỗi dậy của vùng Hoan – Ái
Sự tồn tại của Đường Châu cho thấy cụ thể hơn biên giới cực Nam của nhà Đường. Đây chắc chắn cũng đã là một điểm nóng, bởi chính chỗ này là giáp ranh giữa hai thế giới và hai mô hình nhà nước. Và các cuộc khởi nghĩa chống lại nhà Đường ở đây đều có sự tham góp của Chân Lạp, Chiêm Thành. Năm 713, Mai Huyền Thành khởi nghĩa ở Hoan Châu, liên minh với Lâm Ấp, Chân Lạp đánh chiếm An Nam đô hộ phủ. Những năm sau đó, vị thủ lĩnh bản xứ đã hai lần được Chân Lạp gửi đoàn sứ bộ hoặc cả một đội quân đến giúp, nhưng sau này đã bị quân nhà Đường đánh bại… Năm 767, người Côn Lôn, Chà Và đến cướp châu thành, vào đến tận Chu Diên [đồng bằng sông Hồng], Kinh lược sứ Cao Chính Bình xin viện binh từ Cao Chính Bình châu Vũ Định mới đánh hạ được. Từ năm 767 đến năm 780 khi Giao Châu loạn lạc, Phùng Hưng và Phùng Hải – người ở Đường Lâm đã chuẩn bị lực lượng riêng, bằng cách buôn bán và liên minh với nhóm người khác Hán. Năm 791, Phùng Hưng đánh đô hộ phủ, Cao Chính Bình chết. Năm 819 có khởi nghĩa của Dương Thanh- ông này gia tộc tù trưởng man- mấy đời làm Thứ sử Hoan Châu. Khi đó Thanh làm nha tướng cho Lý Tượng Cổ, Cổ sai Thanh đi đánh Man Hoàng Động. Quân Đường đánh Dương Thanh chạy vào Man Lạo, sau đó viện binh Man Lạo lại quay ra đánh phủ thành.
Tuyến Vinh – Kỳ Sơn sang đến bờ Mekong hay Luang Phrabang đều dài trên 300 km. Nguồn ảnh: https://satellites.pro/Laos_map#18.450952,104.545898,8, hạ tải ngày 30/07/2021. So sánh với hai tuyến từ Hà Tĩnh sang Lào ở dưới.
Như vậy, phần lớn những bất ổn chính trị đều đến từ phía Hoan Châu với sự hậu thuẫn của Chân Lạp, Chiêm Thành. Khởi nghĩa Mai Thúc Loan là một liên minh ba nhóm quyền lực để chống lại sự bành trướng của nhà Đường. Cho đến Dương Thanh đánh úp Tượng cổ thì cả Man Hoàng Động lẫn Hoàn Vương đều dẫn quân vào. Sử chép các sự kiện rời rạc, nhưng có lẽ đằng sau đó là một truyền thống liên minh của phương Nam chống lại sự càn lướt của người Hán. Những liên minh chính trị quân sự này vừa có thể hỗ trợ nhau về buôn bán, tài trợ kinh tế, nhưng cũng có khi sai quân lực đồn trú tham chiến. Và như nhiều cuộc chiến khác, Hoan Ái vẫn là vùng bàn đạp (có hậu phương) để các lực lượng bản địa tràn lấn khi người Hán yếu thế. Tình thế ấy đã trở thành hiện thực vào thế kỷ X, khi nhà Đường sụp đổ, các nhân vật Dương Đình Nghệ- Ngô Quyền- Đinh Công Trứ và Đinh Bộ Lĩnh đã tạo nên một thế kỷ bản lề cho tự chủ của mảnh đất phương Nam.
Nhiều người đến đây có lẽ vẫn chưa tin lắm vào sự hình thành của tuyến đường xuyên từ biển Hoan Nghệ sang đất Lào cách nay hơn 1300 năm. Nhưng 6 tư liệu thời Đường Tống ghi chép về các sự kiện Đường Lâm liên tục vào các năm từ 663 – 791 là những bằng chứng không thể ngó lơ. Thêm nữa, tư liệu bi ký tại Phum Mien năm 987, xác nhận trong thế kỷ X, người Việt đã có những nỗ lực duy trì con đường thượng đạo này. Tôi ngờ rằng, khi đó, bản đồ của Đại Cồ Việt không thể tràn sang đến tận bờ Mekong, mà có lẽ đã hẹp hơn trước.
Tượng Phật nhập niết bàn, núi Thạch Mật, vị trí: 17o58’36’N-105o01’32E. Nằm trên tuyến đường từ Hoan Châu đến Văn Đan. Ảnh: Sinica.
Không ai có thể xác quyết những ranh giới luôn biến động trong lịch sử. Nhưng dù những cột mốc bị xô đổ khi đế chế tàn lụi, thì những dòng người vẫn tiếp nối những tuyến cổ đạo phục vụ cho buôn bán, và đôi khi cả chiến tranh, cướp bóc. Đầu năm 1128, khi vua Lý Nhân Tông vừa băng hà, 20.000 người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An, tức bến Tam Soa (nơi hợp lưu của sông Ngàn Phố và Ngàn Sâu đổ vào sông La, sông La xuôi 7- 8km rồi hợp lưu vào sông Lam ngay ở Phù Thạch- cảng bến lớn nhất của Nghệ An trong lịch sử). Triều đình phải sai Nhập nội Thái phó Lý Công Bình đem quân đánh dẹp, một tháng sau mới chém được tướng giặc. Tháng 8/1128, người Chân Lạp vào cướp hương Đỗ Gia ở châu Nghệ An, có đến hơn 700 chiếc thuyền. Năm 1137, Phá Tô Lặc người Chân Lạp lại cướp châu [ở vùng Hà Trại], Lý Công Bình lại đi đánh dẹp. Năm 1335, Thượng hoàng Trần Minh Tông đem sáu quân tuần thú Ai Lao, thế tử các nước Chiêm Thành, Chân Lạp, nước Xiêm La cùng các thổ tù Đạo Khuông, Quỳ Cầm, Xa Lặc, các man tù ở Bôi Bồn là Đạo Thanh, Xa Man cùng đến hành tại yết kiến. Chỉ có Vông Chấp Tóc sợ tội nên trốn. Năm 1479, vua Lê Thánh Tông trong bài chiếu đánh Ai Lao có ghi: “Thuận Bình, Sa Bôi do vậy rối ren; Lâm An, Quy Hợp bị chúng giày xéo.” Quy Hợp là đồn ở Hương Sơn (Hà Tĩnh), lối Đông Tây thứ hai đã nêu ở trên. Như vậy, ít nhất từ thế kỷ XV về trước, các con đường cổ từ biển vào đến đất Lào vẫn thường được sử dụng. Bình thường, có thể đó là con đường được sử dụng cho hoạt động buôn bán (muối, thực phẩm, hương liệu,…), khi cần có thể phục vụ việc ngoại giao: Ai Lao thường vào chầu cống Đại Việt qua ải Quy Hợp. Đặc biệt, các con đường Đông Tây này có vị trí địa quân sự, có vai trò rất lớn trong việc phòng thủ hoặc tấn công. Điều này làm ta hiểu rõ hơn về vai trò của Đường Lâm- Phúc Lộc trong lịch sử Giao Châu thời nhà Đường. Và những nhân vật lịch sử Phùng Hưng, Dương Thanh, cho đến Ngô Quyền, Đinh Công Trứ, Đinh Bộ Lĩnh,… cũng từ đất này mà làm nên lịch sử.
Đường Lâm châu và Đường Châu trong lộ trình 17 ngày đi từ Hoan Châu đến kinh đô Văn Đan quốc (Chân Lạp). Tái lập: Trần Trọng Dương, 2021. Bản đồ: AS.
Tiểu kết
Như vậy, đến đây, tôi đã hoàn thiện thêm công việc hơn 10 năm trước: đi tìm Đường Lâm là Đường Lâm nào. Sau khi dò dẫm trong khu rừng sử liệu, đứng giữa hàng trăm ngàn chi tiết, và đôi khi bị lạc đường, hoặc đúng hướng nhưng đi chưa tới hết cung đường. Chúng tôi từng cho rằng Đường Lâm ở Nam Thanh Hóa Bắc Nghệ An. Nhưng với các sử liệu này, tôi củng cố thêm quan điểm ấy, rằng: Đường Lâm (“đất hai vua” vào thời Đường) không phải ở Phúc Thọ (Sơn Tây, Hà Nội nay). Có thể xác định chính xác hơn, huyện Đường Lâm của châu Phúc Lộc thời Đường có thể nằm ở tỉnh Hà Tĩnh (tương ứng với huyện Can Lộc, thành phố Hà Tĩnh, huyện Cẩm Xuyên, huyện Kỳ Anh ngày nay). Và huyện Nhu Viễn của châu Phúc Lộc (châu Đường Lâm), tương ứng với các huyện miền núi phía Tây Bắc tỉnh Hà Tĩnh gồm: Hương Khê – Vũ Quang- Hương Sơn và một phần phía Tây của Lào. Cuối cùng, với vị trí địa quân sự- địa kinh tế- địa văn hóa, vùng Đường Lâm (Phúc Lộc châu), rộng hơn là Hoan Châu- Ái Châu, là nơi va đập quyền lực giữa các đế chế (Đường- Chân Lạp- Hoàn Vương- Nam Chiếu), là nơi chà đi xát lại của các tập đoàn người (Hoa Hán từ Bắc, Champa từ phía Nam, Tày Thái từ phía Tây và Tây Bắc, Khmer từ phía Tây Nam,…). Từ vị trí “thập diện mai phục”, người Hoan Ái đã có một cuộc trỗi dậy liên tục trong nhiều thế kỷ. Vừa buôn bán với kẻ thù, vừa chiến đấu với đồng minh, vừa tự cường bằng năng lực vốn có, vừa mượn thế và lực của văn minh nhà Đường, vừa đà đao theo sự trỗi dậy của Hoàn Vương – Chân Lạp, những thủ lĩnh hào trưởng Hoan Ái (họ Phùng- họ Dương- họ Ngô- họ Lê- họ Đinh… ) đã tạo nên những xung lực mạnh mẽ để thoát khỏi sự kìm kẹp của các đế chế, và tạo nên sự độc lập của mảnh đất phương Nam.□
—–
1 Nhạc Sử樂史, 983, Thái Bình hoàn vũ ký <太平寰宇記> , Bản nền: Tứ Khố toàn thư, Văn Uyên Các, q.171, trang 6b.
2 Kenneth R. Hall: Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia, University of Hawaii Press, Honolulu, 1985, p.188; Nguyễn Văn Kim. 2013. Các thương cảng vùng Nghệ – Tĩnh và giao thương khu vực thế kỉ XI-XIV, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 12 (440), 2012, tr.1-18 & số 1 (441), 2013, tr.16-25.
3 Christopher Goscha, Vietnam, a New History, New York, Basic Books, 2016, p.111-112.
4 Âu Dương Tu 歐陽修 và Tống Kì 宋祁, 1060, Tân Đường thư <新唐書>, 底本:北宋嘉祐十四行本, 楊家駱主編, 台北:鼎文, 1979, trang 1146.
5 Âu Dương Tu 歐陽修 và Tống Kì 宋祁, 1060, Tân Đường thư <新唐書>, 底本:北宋嘉祐十四行本, 楊家駱主編, 台北:鼎文, 1979, trang 1153-1154.
6 Lưu Hú劉 昫, 945, Cựu Đường thư <舊唐書>, 底本:清懼盈齋刻本,楊家駱主編, 台北:鼎文,1979, trang 5271.
7 Theo Đường thư, năm 706, Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp đã thành hình. Nguyên văn: “自神龍以後,真臘分為二:半以南近海多陂澤處,謂之水真臘;半以北多山阜,謂之陸真臘 ,亦謂之文單國。” [Lưu Hú劉 昫, 945, Cựu Đường thư <舊唐書>, 底本:清懼盈齋刻本,楊家駱主編, 台北:鼎文,1979].
8 “開元初,安南首領梅玄成叛,自稱「黑帝」,與林邑、真臘國通謀,陷安南府,詔思勗將兵討之。” [Lưu Hú劉 昫, 945, Cựu Đường thư <舊唐書>, 底本:清懼盈齋刻本,楊家駱主編, 台北:鼎文,1979, trang 4756].
9 Năm 717, đã có một đoàn sứ bộ của Chân Lạp đến giúp
10 Năm 722, quy mô có vẻ lớn hơn, lần này là một đội quân được gửi đến. Henri Maspéro, “La Frontière de l’Annam et du Cambodge du VIIIe au XIVe siècle”, BEFEO 18, 3 (1918), p.29.
11 Nguyên văn: “壬戌唐玄宗隆基開元十年賊帥梅叔鸞㨿州稱黑帝外結林邑真臘人等眾號三十萬唐帝遣内侍左監門衛將軍楊思朂都護元楚客討平之” [Toàn thư 1998, trang 190].
12 Geng Hui Ling耿慧玲 ,《越南史論——金石資料之歷史文化比較》台北:新文豐出版公司,2004年,649頁
13 Toàn thư 1998, trang 192. Về khởi nghĩa Dương Thanh đọc thêm [Phạm Lê Huy, Khảo cứu khởi nghĩa Dương Thanh (819-820) qua nguồn
14 Henri Maspéro, “La Frontière de l’Annam et du Cambodge du VIIIe au XIVe siècle”, BEFEO 18, 3 (1918), p.447; Coedès, George, Inscription du Cambodge 6 (Hanoi-Paris, 1942–66), pp. 183–86. Kenneth R. Hall: Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia, University of Hawaii Press, Honolulu, 1985, p.188.
15 Maspéro (1918, 33) cho rằng Ba Đầu bộ là Phố giang trên địa bàn của huyện Hương Sơn.
16 [Toàn thư 1998, sđd, trang 299]. Toàn thư ghi: “波頭步” (ba đầu bộ) là sai về ngữ văn, phải là “Ba Đầu bộ đầu”, vì “bộ đầu” là “bến”, tức là bến Ngã Ba. Bến đó nay gọi là bến Tam Soa. Từ bến Tam Soa xuôi xuống phố chợ lớn nhất của Nghệ là Phù Thạch chỉ có 5-6 km, từ Phù Thạch xuôi về Vinh chỉ 6 km nữa. Chắc Chân Lạp đánh cướp dọc cả dọc cửa biển và thành trì, nhưng sử chỉ ghi một chỗ.
17 Maspéro (1918) cho rằng Chân Lạp theo đường đèo Mụ Giạ vào Hà Trại. Mụ Giạ là đèo ở huyện Minh Hóa tỉnh Quảng Bình.
18 thư 1998, sđd, trang 309.
19 Nguyễn Trung Ngạn, 1335, Ma nhai kỷ công văn, bia trên sườn núi Thành Nam, thôn Trầm Hương, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, Thác bản: 13494 tại Viện NC Hán Nôm [Thích Đức Thiện- Đinh Khắc Thuân, Văn bia thời Trần, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, tr.123].
20 Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1993, tr.65.