Ha Gil-jong và những đoàn tàu thời gian

“Giàu rồi thì cậu sẽ làm gì?”, cô gái hỏi. Chàng trai: “Tớ sẽ xây một ngôi nhà hiện đại có mái đỏ. Tớ sẽ trồng hoa hồng trong vườn, và cũng sẽ tậu một con xe hơi nữa. Tớ sẽ tự làm ra tiền. Thế rồi tớ sẽ đi săn cá voi. Có một con cá voi ở bờ biển phía Đông. Một con cá voi xinh đẹp lắm. Tớ sẽ bắt được nó.” Nói rồi cậu ta tu ừng ực ly bia. Trong khi đám bạn lôi cậu ta ra cửa quán, cậu ta vẫn còn lè nhè: “Nào cùng đi săn cá voi! Nào cũng bắt con cá ấy!”
Chàng trai tên Yeong-cheol, là một sinh viên ngành triết học. Cậu không thi đỗ trường nào, chưa từng thi đỗ trường nào. Cấp một thi trượt vào cấp hai, cấp hai thi trượt vào cấp ba, học đến đại học đều là do bố sắp đặt cho, đến khi vào đại học rồi, muốn đi nghĩa vụ quân sự nhưng cũng trượt vì sức khỏe yếu. Giấc mơ của Yeong-cheol đến từ một bài hát mang tên Săn cá voi (堅楚 餌傖) — một bản nhạc thập niên 70 của danh ca Song Chang-sik, người vẫn được người Hàn Quốc tôn vinh như “bố già folk rock”. Bạn thân của Yeong-cheol là Byeong-tae, cũng là sinh viên ngành triết học. Mở đầu bộ phim The March of Fools (;1975) của đạo diễn Ha Gil-jong, hai chàng thanh niên ngồi trong giờ học triết – thầy giáo đang giảng về Plato và xã hội lý tưởng trong tưởng tượng của vị triết gia, một xã hội nơi nghệ thuật chỉ là vô dụng. Thầy cứ dạy, còn trò? Chúng đang mơ mộng về cuộc hẹn hò giấu mặt sẽ diễn ra vào tối hôm ấy.
Dịp kỷ niệm 100 năm điện ảnh Hàn, Liên đoàn Lưu trữ Điện ảnh Hàn (Korean Federation of Film Archives) đã mời 62 nhà phê bình cùng bầu chọn ra 100 tác phẩm điện ảnh vĩ đại nhất của đất nước này. The March of Fools nằm ở vị trí đầu tiên, đồng hạng với hai kinh điển khác The Housemaid (, 1960) của Kim Ki-young và An Aimless Bullet (螃嫦驕, 1961) của Yoo Hyun-mok.
The March of Fools giống như một bản nhạc mà tay trái và tay phải chạy những giai điệu khác nhau, tay phải vui vẻ và tươi sáng, tay trái u ám và ủ dột.
Có một kiểu điện ảnh thế này (một kiểu điện ảnh đã được Takeshi Kitano diễn tả trong bộ phim ngắn One Fine Day của mình): một khán giả đạp xe tới rạp chiếu bóng nằm giữa đồng không mông quạnh, trông ông rách rưới tả tơi không giống một người mê phim, ông một mình bao rạp, người ta chiếu nhầm phim, họ xin lỗi, chiếu lại sang một bộ phim khác, phòng chiếu bị cháy, ông vẫn tiếp tục đợi đến khi đám cháy được dập và ông xem bộ phim thứ ba, chẳng biết có phải bộ phim ông muốn xem hay chăng, nhưng ông vẫn xem đến hết, khi ông ra về thì cái xe đạp đã biến đâu mất, ông lếch thếch cuốc bộ đi về, không có vẻ gì phẫn nộ. Tại sao không phẫn nộ? Có lẽ bởi chỉ vì việc được ở đó, xem phim, là đã đủ để bù đắp cho mọi mất mát khác ở thế giới bên ngoài. Nói dài dòng thế cũng chỉ để nói một ý: The March of Fools là một bộ phim như vậy, một bộ phim mà bạn sẵn sàng bỏ lại cả chiếc xe đạp của mình để xem tới hết, và dù mất xe đạp thì chỉ riêng bộ phim ấy thôi cũng đủ để bạn gọi ngày mình vừa trải qua là “one fine day”, một ngày đẹp trời.
Những nhân vật trong phim – hai chàng thanh niên khoa triết và hai cô nàng sinh viên khoa văn học Pháp – cũng trải qua những ngày rất mực đẹp trời. Những ngày đẹp trời để họ chạy trên phố, dạo công viên, dạo nghĩa trang, chơi bóng bay, ngắm đàn nai, nằm trên bãi cỏ, chơi đá bóng, tán tỉnh nhau, gặp gỡ rồi chia xa; và nhớ nhé: ngay cả khi Yeong-cheol lao xuống từ vách đá xuống biển để đi tìm con cá voi của đời mình, đó cũng là một ngày đẹp trời.
The March of Fools giống như một bản nhạc mà tay trái và tay phải chạy những giai điệu khác nhau, tay phải vui vẻ và tươi sáng, tay trái u ám và ủ dột. Và làm cách nào đó mà hai giai điệu ấy luôn chạy song song, trong từng khung hình một: những cảnh hứa hẹn nhất và lãng mạn nhất luôn thấp thoáng bóng tối của sự ngậm ngùi; còn những cảnh buồn bã nhất, thậm chí bi quan nhất, lại tràn ngập ánh Mặt trời theo nghĩa đen.
Buổi hẹn hò hài hước khi nàng Yeong-ja gạ gẫm Byeong-tae giúp mình viết bài luận về L’Étranger của Albert Camus, họ ngồi ăn ở quán dựng trong lều bạt màu vàng – màu sắc của hy vọng, của sự lạc quan, của ánh sáng, của sự hân hoan – buổi hẹn hò ấy lại diễn ra trong cơn mưa tầm tã. Hai nhân vật ăn uống xong xuôi, rời khỏi chiếc lều vàng, và ống kính quay họ bước chân đi thật xa,bước ra khỏi nơi trú ngụ của niềm vui và bước vào bóng tối thăm thẳm của phố đêm. Buổi hẹn hò khác của họ trong công viên, Yeong-ja ôm chùm bóng bay sặc sỡ, họ cười đùa trên cỏ, họ ngắm bầy nai – loài vật biểu trưng cho sự sinh sôi nảy nở – nhưng đó là một buổi chiều tà mùa đông, cây đã trụi lá, và trời vẫn còn sáng nhưng đã thấy những nhón gót khẽ khàng của đêm đang tiến lại từ xa, và rồi họ lạc bước vào một nghĩa trang, họ nói về những người đã chết và giấc mơ không bao giờ kết thúc của những người không còn trên cõi đời này nữa, nàng gõ một tiếng lên bia mộ để nói lời tạm biệt, rồi có một đoàn tàu vọt qua ở xa xăm. Đoàn tàu lao đi thật nhanh, có lẽ cũng như bóng tối sẽ lao đến rất nhanh, có lẽ cũng như tuổi trẻ và giấc mơ và cuộc đời của họ cũng sẽ, vào một lúc nào đó, vào một lúc nào đó.
Một phân cảnh khác cũng thế: Byeong-tae và Yeong-cheol ăn vận bảnh bao chuẩn bị đi hẹn hò, bị một cảnh sát nhận nhầm là bọn gây rối, liền đuổi theo. Hai chàng trai chạy sầm sập trên phố, tóc dài bay trong gió, nhạc vang lên: “Sao gọi anh khi anh đã quay đi? Sao gọi anh? Sao gọi anh?” Cảnh ấy ở đầu phim, đáng ra rất mực tươi tỉnh, chẳng phải mấy cậu trai này sắp sửa đi hẹn hò đó ư? Chỉ là nó đã diễn ra vào một ngày thật nhiều mây, trong một thành phố với pallete màu xanh – xám cũ kỹ, là ban ngày nhưng ánh sáng không trong trẻo mà đục mờ như được lọc qua một màn mây buồn. Những điều đó kéo lại động lượng của cảnh phim; họ muốn vui nhưng dường như luôn có gì đó kéo họ lại, một cái gì đó đã ở sẵn quanh họ, trong họ, trong thành phố này. Và rồi cuộc thi uống bia của đám sinh viên rách giời cũng diễn ra trong một không gian tăm tối. Tiếng cười vì vậy như báo điềm chẳng lành.
Nhưng ngược lại, càng về cuối phim, khi những đả kích nho nhỏ tiếp nối nhau, một phân cảnh đáng ra rất buồn khi Byeong-tae và Yeong-cheol tâm sự chuyện đời sau một đêm dài thức trắng và dường như đã nhậu say sưa đến mức nôn thốc tháo, họ bước ra bến cảng, nói về chuỗi thất bại của mình, nhạc nền không thể buồn bã hơn, và có một góc máy họ bị giấu đằng sau một dàn cột kim loại như thể một nhà tù đang bủa vây lấy họ, vậy mà cảnh ấy lại được đặt vào thời điểm ngay trước bình minh, khi trời đêm chuyển dần sang màu lam sẫm, thời khắc chuyển giao giữa đêm sang ngày, một ngày mới lại sắp bắt đầu, vẫn còn cả một ngày mới đang dần trải ra, cho họ.
Và ở đỉnh cao của tuyệt vọng thời tuổi trẻ, Yeong-cheol theo tiếng gọi một giấc mơ về con cá voi ngoài biển, đạp xe qua những con đường quốc lộ để tới một ngọn núi đá nhìn ra đại dương lấp lánh, anh mỉm cười khi nước sóng vỗ trên biển mênh mông, tiếng nhạc vang lên “Tôi uống rượu, vui vầy nhưng nỗi buồn lấp đầy tim tôi, tôi tìm kiếm điều gì đó để làm nhưng mọi thứ trong tầm mắt đều quay đi. Nào ta hãy cùng ra biển để bắt lấy con cá voi huyền thoại”, và rồi cả người cả xe lao xuống không trung. Đỉnh cao tuyệt vọng ấy diễn ra vào lúc ban trưa khi Mặt trời cũng lên tới đỉnh cao của nó, và ở thiên đỉnh, ánh sáng chiếu vuông góc xuống quả đất này. Đó không phải lần đầu Yeong-cheol đi tìm cá voi; một lần khác, ngay trên phố, anh chạy theo một chiếc xe bus lớn để trốn thoát một vụ lùm xùm trên đường, anh gọi cái xe bus tồi tàn, cũ kỹ, xám xịt, nhả khói mù mịt ấy là cá voi — không biết con cá voi thực thụ mà anh đã trả cả cuộc đời để theo đuổi liệu có tồi tàn, cũ ký, xám xịt, mù mịt như thế?
Bốn năm sau khi làm The March of Fools, Ha Gil-jong qua đời, mới 37 tuổi, do chứng phình động mạch. Trước khi chết, Ha Gil-jong đi xem bộ phim này, bấy giờ mới được công chiếu rộng rãi ở Seoul. Anh kể lại mình đã khóc khi xem nó ngoài rạp vì nhận ra tuổi trẻ của mình cũng đã trôi qua. Tôi tự hỏi Ha Gil-jong đã rơi nước mắt ở cảnh nào? Cảnh Yeong-cheol nhảy xuống vách núi? Có lẽ không phải. Dù rất buồn nhưng có lẽ anh đã rơi nước mắt ở ngay cái kết tưởng như rất đẹp và lãng mạn của phim, khi nàng Yeong-ja chạy theo chuyến tàu đưa Byeong-tae đi làm nghĩa vụ quân sự. Nàng chưa từng hứa hẹn với anh, chưa từng nghiêm túc với anh, nhưng bây giờ thì nàng đã yêu anh. Chuyến tàu chuyển bánh, Byeong-tae lao nửa người ta khỏi ô cửa còn Yeong-ja vươn mình lên để hôn nhau. Câu hát “Thời gian có thể rất tàn nhẫn” được cất lên đúng ở một cảnh quay cận vào một chuyển động của thanh sắt trên đường ray. Hình ảnh đoàn tàu lúc này gợi nhớ lại rất nhiều lần đoàn tàu đã xuất hiện trong phim, phần lớn chỉ ở cảnh nền, lướt qua mắt nhân vật.
Bây giờ thì ta hiểu tại sao chúng lại xuất hiện năm lần bảy lượt, tại sao chúng hiện diện ở đó. Để liên tục nhắc ta rằng dù nhân vật ở bên ngoài đoàn tàu, hay ở trên đoàn tàu, thì đoàn tàu vẫn đang lao đi. Đoàn tàu là thời gian. Thời gian nằm ở đó, trong tích tắc đường ray chuyển động. Và thời gian đã luôn trôi qua và sẽ luôn trôi qua. □
Bài đăng Tia Sáng số 11/2025