Hồi ký Carl Jung: Cúi xuống để thấy Chúa trời

Carl Jung sẽ phân tích ra sao về những giấc mơ của chính mình, sự méo mó của chính mình, những đứt gãy của ý thức và vô thức của chính mình

Một ấn bản “Erinnerungen, Träume, Gedanken”.

Non foras ire, in interiore homine habitat veritas. Đừng tìm kiếm bên ngoài, chân lý cư ngụ ở con người bên trong. Trong chương sách về thời sinh viên học về tâm thần tại đại học Basel, Carl Jung đã trích lại lời của Thánh Augustine. Dù đó là Chúa đã chiếm ngự đời sống tinh thần của ta hàng ngàn năm hay là những vật thể bay không xác định chỉ mới trở thành truyền thuyết đô thị của thế kỷ 20, nếu ta có thể đi sâu vào con người bên trong, ta cũng có thể đến gần hơn với những hiện tượng ấy và những ý niệm ấy. Và một câu hỏi rất tự nhiên nảy sinh trong tâm trí những độc giả tò mò: vậy thì khi Jung, vị bác sĩ tâm lý luôn khuyên người khác phải đi sâu vào con người bên trong, tự mình đi sâu vào con người bên trong của ông, thì sẽ bắt gặp gì ở đó? 

Jung bước vào lãnh địa tâm thần học vào thời đại mà giám đốc nhà thương điên cũng bị giam trong trại thương điên, những nhà nghiên cứu về nó thì phải biện hộ cho nghề nghiệp của mình, và ngành khoa học này vẫn chỉ là một vùng đất hoang chẳng mấy người khai khẩn, còn những kẻ khai khẩn thì cũng bị người đời coi là loạn trí không kém. Trong một thời đại như thế, không thể khác được, một bác sĩ tâm thần phải tự điều trị được cho bản thân trước khi điều trị cho bệnh nhận, họ, nói như Jung, phải dấn thật thật sự và biết rằng mình là “một phần của bi kịch” chứ không “núp sau tấm áo choàng uy quyền” nếu không muốn “đánh mất một phần tâm hồn mình”. Vậy, Jung sẽ phân tích ra sao về những giấc mơ của chính mình, sự méo mó của chính mình, những đứt gãy của ý thức và vô thức của chính mình?

Câu trả lời có lẽ nằm đâu đó trong Erinnerungen, Träume, Gedanken (theo dịch giả Vũ Hoàng Linh: Hồi ức, giấc mơ, suy ngẫm), hồi ký những năm cuối đời Jung do Aniela Jaffé ghi âm, một tự thuật chồng chất những giấc mơ, những ảo ảnh, những thị kiến, những nhật trình tâm linh, những khoảnh khắc khai tâm, những thấu thị huyền nhiệm, những chuyến viễn du vào cõi hun hút tựa một hang động sâu thẳm, trơn tuột, khó mà níu bám vào bất cứ gờ, mấu biểu tượng nào: tâm trí một con người. Giả sử ta có thể vẽ bản đồ địa hình tâm trí Carl Jung từ những hồi ức của ông thì hẳn ta sẽ có một vương quốc rộng lớn với những trái núi sừng sững dựng lên từ trăn trở về Thượng Đế, những hồ nước trong veo bằng phẳng nhưng sâu không đáy của những giấc mơ kỳ lạ thường dẫn ông vào một vùng thời – không khác, và bao quanh đó là khu rừng rậm rạp của cảm nghiệm về cái chết, về những bóng tối khó dò.   

Nếu như Jean-Jacques Rousseau từng tách Rousseau và Jean-Jacques ra làm đôi để Rousseau ngắm nghía Jean-Jacques như một thực thể khác, thì Carl Jung cũng mượn lời Faust mà thốt lên: “Hỡi ôi, hai tâm hồn trú ngụ trong lồng ngực tôi” — từ rất sớm, Carl Jung đã thấy trong mình có hai con người: một thanh niên tài năng trung bình với tham vọng quá mức, chẳng có điểm gắn kết thực sự nào với thế giới quanh mình; và một con người khác được chiếm lĩnh bởi ánh sáng “như trong những đại sảnh rực rỡ của một cung điện hoàng gia mà cửa sổ cao mở ra một phong cảnh ngập tràn ánh nắng”, một sự hiện hữu nối liền vào lịch sử thay vì là một hỗn độn ngẫu nhiên. Nhưng Carl Jung đã không làm như Rousseau, tách đôi hai nhân cách ấy ra như bổ một trái táo làm đôi, ông đi tìm một sự hợp nhất, hay thậm chí có thể gọi là một sự hiệp thông để trả lại sự toàn vẹn của tâm hồn. 

Người ta không nhất thiết phải đồng tình với tất cả những quan điểm của Carl Jung về thần học, về thần kinh, thậm chí là những diễn giải của ông về vô thức để bị cuốn vào những cuộc ngao du của ông khám phá những ẩn mật của Kinh Thánh, của con người và tự nhiên, những cuộc ngao du đôi khi là trong tinh thần, đôi khi ở xác phàm, và đôi khi hai cuộc ngao du ấy nhập làm một – như những cuộc du ngoạn tới cao nguyên Taos gặp những người thổ dân da đỏ ngày ngày hành lễ bởi niềm tin rằng họ đang đưa mặt trời đi qua trái đất, và nếu họ ngưng lại chỉ một ngày thôi nghi lễ ấy thì Mặt trời sẽ không còn mọc và thế giới sẽ lụi tàn, hay những chuyến đi sâu vào những bồn địa Phi châu nơi những người bản địa nhổ nước bọt vào lòng bàn tay và hướng về phía Mặt trời, và họ vẫn còn tin vào ý nghĩa của những nghi thức ấy như vẫn tin vào thần khí của vũ trụ này, thần khí có trong vạn vật, cả trong những loài thú dữ ăn thịt đàn gia súc của họ – và “sư tử là tốt đẹp”. Thậm chí, ngay cả lời kể về chuyến ngao du chưa thành hiện thực của Jung cũng khiến ta bị mê hoặc, như Roma mà ông mô tả là “một lò lửa âm ỉ khói và ánh sáng”, Roma mà ông đã lỡ hẹn trong suốt đời mình, một sự lỡ hẹn như thể cũng chứa đựng một bí mật nào đó trong cách vũ trụ xoay trở.

Không chỉ khi mơ thì Jung mới đang mơ. Từng trang trong hồi ký đời ông, cả những trải nghiệm nhập thế nhất dường như cũng là một sự nối dài của những giấc mơ, bởi ông đã cho phép vô thức hoá giải những gấp khúc và rạn nứt cùng ý thức: đó là những cuộc gặp gỡ với Freud cả trong hiện thực lẫn trong những tâm tưởng luôn tràn đầy hiện tượng siêu linh; đó là những ký ức tưởng chừng vặt vãnh như khi ông đi dạo bên một bờ hồ và nhặt được một mảnh đá nhỏ mà ngay lập tức ông đã nhìn thấy ở nó một chiếc bàn thờ;  đó là những trang ngắn ngủi về việc khởi công xây Tháp Bolligen trong một khu đất còn xác một người lính Pháp chết đuối trên sông Linth và trôi dạt tới đây, Tháp Bolligen mà Jung đã tự xây lên bằng hai bàn tay như một người thợ, nơi ông trở về với một đời sống gần như nguyên thuỷ, tự bổ củi, bơm nước từ giếng, thắp ngọn đèn dầu cũ kỹ, hoàn toàn gột bỏ mình khỏi nền văn minh vũ bảo với những sáng kiến khoa học tiết kiệm thời gian để đến gần hơn với cảm thức hiện hữu và linh hồn tổ tiên sống trong chính mình. 

Cách mà Jung diễn giải những giấc mơ đôi khi có thể khiến một độc giả trần trụi về tâm linh cảm thấy có chút buồn cười. Ông thấy một viên chức hải quan trong mơ lục soát hành lý của mình và liền quy ra đó là phóng chiếu tình trạng lưỡng phân về mối hoài nghi và lòng kính trọng với Freud. Nếu là trong một cuộc chuyện phiếm, hẳn lắm người sẽ trách Jung thật “overthinking”, thật rỗi hơi. Và ông còn làm nhiều chuyện rỗi hơi hơn nữa kìa, như là thu thập gia phả của những đồng nghiệp trong bệnh viện tâm thần như thể họ cũng là những bệnh nhân của ông vậy. 

Nhưng bằng cách gán nghĩa cho cả những thứ mà phần đông chỉ coi là ngẫu nhĩ, là vô nghĩa, là vụn vặt, bằng cách nhìn thấy cả mandala trong những đĩa bay, nhìn thấy trong hòn đá vô tri thô kệch rẻ mạt một con mắt đang nhìn, thấy ở đó một lễ vật tạ ơn và khắc lên đó những dòng “ta là kẻ mồ côi, đơn độc; tuy nhiên, ta được tìm thấy khắp nơi… Ta lang thang giữa rừng núi, nhưng ta ẩn náu trong tầng sâu nhất của linh hồn còn người. Ta chết đối với mọi người, nhưng không bị ảnh hưởng bởi vòng quay của các thời đại”, Carl Jung tái tạo lại ý nghĩa cho một thế giới hiện đại loạn trí đã bị lột trần trùng trục sau khi đã bị xé rách mọi lớp lụa là được dệt nên từ những điều bí mật, những sấm ngôn, những bí tích siêu phàm, bị rọi sáng bởi ánh đèn công suất cao trâng tráo của kỷ nguyên hiện đại, chiếu giãn lỗ chân lông của những biểu tượng và dụ ngôn. 

Có lẽ nếu sống đến thế kỷ này, Jung sẽ đồng ý với Han Byung-chul, rằng với sự mất nghĩa của những biểu tượng, những nghi thức và với việc những món đồ trở thành đối tượng tiêu dùng, thì “sự ảo diệu nhường chỗ cho sự minh bạch, trong suốt”, thì thời gian “thiếu một cấu trúc vững vàng… nó lao đi vội vã. Không có bất cứ thứ gì cung cấp cho thời gian cái gì để nó có thể bám víu được… nó không còn là nơi có thể ở được”,  thì con người mắc chứng trầm cảm vì “mối quan hệ quá mức với bản thân,… không có khả năng thoát ra khỏi chính mình, vượt qua chính mình để bước vào thế giới.” Điều đó không đối nghịch với mệnh đề: chân lý cư ngụ ở con người bên trong. Chân lý cư ngụ ở con người bên trong không có nghĩa là ta chỉ sục sạo bên trong mình, đúng hơn là, ta sục sạo bên trong mình để tìm đường tới với nhất thể, như trong những huyền thoại người ta lặn xuống mạch nước ngầm để rồi thấy nó thông với thế giới qua một ngõ ra khác.

Quay ngược lại thời gian về một scène trong tuổi thơ của Carl Jung, ông kể lại thắc mắc từ khi còn là đứa trẻ: tại sao Adam và Eva, hai thực thể hoàn thiện được tạo ra bởi Chúa, lại có thể phạm tội? Chẳng phải họ đã phạm tội bởi Chúa đặt họ vào khả năng phạm tội hay sao? Và nếu như vậy, cớ gì Thượng Đế lại làm nhơ nhuốc chính thánh địa của ngài? Và ông cảm thấy mãn nguyện khi trong Kinh Tân Ước, Peter do dự, Peter chối Chúa 3 lần lại được đích thân Chúa chọn cai quản Hội Thánh, ông cả mừng vì “những kẻ bị ruồng bỏ là những người được chọn”. Ta biết rằng, về sau, khi viết Antwort auf Hiob (tạm dịch: Lời đáp tới Job), ông đưa ra một diễn giải táo tợn về truyền thống Do Thái – Thiên Chúa giáo, trong đó nhìn nhận việc cho phép Satan hành hạ ông Job là bằng chứng cho “the shadow” (bóng ngã, mặt tối, mặt bị đè nén) của Đức Chúa, chứng kiến Job chịu nạn là cách để Chúa tự nghiền ngẫm về chính ngài như một thể thống nhất của thiện – ác; và đó là lý do Ngài tạo nên một hiện thân khác là Jesus trong hình hài con người, để đối mặt với tất cả những giới hạn của hình hài ấy. Nói vui thì có lẽ cả Chúa nữa cũng trải qua những khủng hoảng tâm lý. 

Và đến Chúa rồi cũng cúi xuống nhìn con người rồi mới hoà giải được sự thật về chính mình và vũ trụ, nhưng con ngươi, từ bao lâu chúng ta – như trong một câu chuyện của người Do Thái mà Jung đã kể trong hồi ký đời mình – không còn đủ khả năng cúi xuống đủ thấp để nhìn thấy Chúa?

Bài đăng Tia Sáng số 16/2025

Tác giả

(Visited 21 times, 21 visits today)