Igor Stravinsky – nhà cách tân âm nhạc thế kỷ 20

Năm 1913 đã xảy ra vụ scandal trong lịch sử âm nhạc cổ điển - vở ballet của Stravinsky “Le sacre du printemps” (Mùa xuân thiêng liêng) đã được trình diễn. Những âm điệu gay gắt, sử dụng lối hòa âm khác lạ với sự thống trị của nhạc cụ hơi và đồng so với bộ dây, đã tạo ra một làn sóng chống đối của khán giả Paris, những người vốn quen thuộc với thứ âm nhạc dịu nhẹ, du dương, êm tai. Với tác phẩm này, Stravinsky đã mở ra một giai đoạn sáng tạo, cách tân mới, có tầm ảnh hưởng lớn đến những nhà soạn nhạc của thế kỷ 20.

Igor Fyodorovich Stravinsky sinh ra ở một khu nghỉ mát Ornienbaum trên vịnh Phần Lan vào ngày 17 tháng 6 năm 1882. Là con trai thứ hai của ông Fyodor Ignat’yevich Stravinsky, một nghệ sỹ giọng bass nổi tiếng của nhà hát Opera Hoàng gia St Peterburg,  Igor được dạy piano từ rất nhỏ và đã gắn bó với piano đến tận cuối đời đến nỗi ông không thể sáng tác mà lại thiếu đi cây đàn này.
Thời gian theo học luật tại trường Đại học Tổng hợp là quãng thời gian Stravinsky nghe nhạc nhiều nhất, đặc biệt là các tác phẩm của Tchaikovsky, Glinka và Rimsky-Korsakov- nhạc sỹ ông gặp tại Heidelberg vào năm 1902. Chính Rimsky-Korsakov đã khuyến khích ông bắt tay vào sáng tác Sonatina, Allegro, Faune st berrgère (Thần điền dã và cô bé chăn cừu) và tới năm 1905 là một bản giao hưởng hoàn chỉnh. Năm 1908, sau khi sáng tác bản “Pháo hoa” để kỷ niệm đám cưới với con gái của Rimsky-Korsakov, Stravinsky tiếp tục sáng tác các etude cho piano. Khi Rimsky-Korsakov qua đời, ông đã có một tác phẩm “Chant funèbre” để tưởng niệm nhà soạn nhạc lớn này.
Năm 1909, Stravinky đã có cuộc gặp gỡ định mệnh với Sergei Diaghilev, người đầu tiên cảm nhận và đánh giá được tài năng thiên bẩm của người nhạc sỹ trẻ. Cuộc gặp gỡ này là sự khởi đầu cho một tình bạn gắn bó với bao thăng trầm trong suốt 30 năm sau này. Khi ấy, Stravinsky mới tốt nghiệp đại học và đã có gia đình nhưng vẫn chưa xác định rõ được tương lai của mình với tư cách là nhạc sỹ sẽ ra sao. Diaghilev đặt hàng Stravinsky viết nhạc cho vở “Les sylphides” (Tiên nữ), một vở ballet lấy cảm hứng từ những bản nhạc viết cho piano của Chopin. “Les sylphides” đã được đoàn ballet Russe biểu diễn lần đầu tiên vào mùa du lịch Paris vào năm 1909 tại nhà hát Opera Paris. Stravinsky kể lại: “Tôi vừa trở về sau một kỳ nghỉ và đang tĩnh tâm để hoàn thành nốt tác phẩm Rossignol thì nhận được một bức điện tín. Điều đó đã làm thay đổi mọi kế hoạch của tôi. Diaghilev đề nghị tôi viết nhạc cho vở “Con chim lửa”. Buổi công diễn vở “Con chim lửa” ở nhà hát Opera Paris năm 1910 đã tạo điều kiện cho Stravinsky gặp gỡ những nhà văn, nhà soạn nhạc nổi tiếng đương thời như Marcel Proust, Maurice Ravel, Manuel de Falla và đặc biệt là Claude Debussy, người sau này đã trở thành bạn của ông đến suốt đời.
Vở ballet thứ 2 viết cho Diaghilev, “Petruska” (1911), cũng giành được thành công tương tự, dẫu không mang nhiều màu sắc phương Đông như “Con chim lửa”. Thay vào đó, ở vở ballet này, Stravinsky đã tận dụng tối đa những giai điệu nồng nàn của nhạc Nga. Ông nhớ lại: “Khi soạn phần âm nhạc, tôi đã tưởng tượng thấy cảnh một con rối đột nhiên bị cắt dây, cảnh này được dàn nhạc tăng thêm bằng sự dồn dập của những hợp âm rải. Dàn nhạc đáp trả lại với những hợp âm kèn lệnh đầy đe dọa. Phần kết thúc ở đoạn cao trào với hình ảnh bi thảm của con rối ngã gục xuống đất đầy đau đớn”. Buổi công diễn của vở balle ở Paris diễn ra với sự hóa thân tuyệt vời của Nijinsky (vào vai Petruska), Tamara Karsavina (vai cô vũ nữ) và Enrico Cecheti (nghệ nhân rối).
Năm 1913 xảy ra vụ scandal của lần trình diễn vở ballet tiếp theo của Stravinsky “Le sacre du printemps” (Mùa xuân thiêng liêng). Ông viết tác phẩm này theo lời yêu cầu của Diaghilev năm 1912. Vở ballet này mang những âm điệu gay gắt, sử dụng lối hòa âm khác lạ với sự thống trị của nhạc cụ hơi và đồng so với bộ dây. Điều này đã tạo ra một làn sóng chống đối của khán giả Paris, những người vốn quen thuộc với thứ âm nhạc dịu nhẹ, du dương, êm tai. Tuy nhiên, tác phẩm này đã mở ra một giai đoạn sáng tạo, cách tân mới, có tầm ảnh hưởng lớn đến những nhà soạn nhạc đương thời.
 

Khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra vào năm 1914, Stravinsky rời Nga đến Thụy Điển, và một lần nữa, theo sự đề nghị của Diaghilev, Stravinsky đã soạn tác phẩm “Đám cưới” mà mãi đến năm 1923 mới được công diễn ở Paris. Stravinsky nhớ lại ông đã viết vở này ở một vùng núi, “trong một phòng nhỏ chứa những hộp chocolate Suchard, với một áo khoác choàng qua vai, một mũ berê da trên đầu, một đôi giày tuyết và một chiếc khăn chùm lên đầu gối”. “Đám cưới” đã đạt được thành công bất ngờ với sự kết hợp giữa 4 piano và nhạc cụ hơi. Tiếp theo là hai tác phẩm thính phòng. Tác phẩm”Renard” được ông hợp tác với tác giả Charrles Ferrdinand Ramuz người Thụy Sỹ do công chúa Edmon de Polignac đặt hàng viết cho dàn nhạc nhỏ 20 người. Nhạc cụ chính là đàn cimbalum do những người dân digan Hungary chơi. Ở một tác phẩm khác. “Câu chuyện người lính” được trình diễn lần đầu tiên vào năm 1917 với sự giúp đỡ tài chính của Wener Reinhardt. Vào thời điểm này, Stravinsky lâm vào cảnh túng quẫn và bệnh tật. Điều đặc biệt là chính sách “thắt lưng buộc bụng” thời hậu chiến đã ảnh hưởng đến cả biên chế dàn nhạc giao hưởng, buộc ông phải sáng tác tác phẩm dành cho dàn nhạc nhỏ. “Câu chuyện người lính” giống như một tác phẩm viết cho ban nhạc jazz, trong đó có một số loại nhạc cụ thể hiện cả những âm sắc trầm. Nhạc cụ chính là violin, tượng trưng cho người lính ngây thơ, cả tin đã bán linh hồn cho quỷ dữ để đổi lấy một chiếc bùa. Anh ta trở nên giàu có nhưng không hạnh phúc. Kiệt tác thính phòng này cũng được lấy cảm hứng từ tác phẩm của Charrles Ferrdinand Ramuz, người sáng tác câu chuyện dựa trên những câu chuyện ngụ ngôn Nga.

Và lúc này, một lần nữa, chính Diaghilev đã thúc đẩy Stravinsky viết một vở ballet quan trọng khác là Puloinella (1919). Dựa trên nhạc của Pergolese, Stravinsky đã “cách tân” phong cách âm nhạc thế kỷ 18 để tạo nên một âm nhạc đánh dấu sự bắt đầu của thời kỳ tân cổ điển trái ngược hẳn với hệ thống nhạc 12 âm đang thịnh hành thời bấy giờ. Vở ballet này công diễn vào năm 1920, biên đạo múa do Massine, phần trang trí sân khấu do Picasso đảm trách. Stravinsky sáng tác “Mavra”, một vở ballet buffa năm 1922, vở oratorio “Vua Oedipus” năm 1927, ballet “Apollon Musagète (với sự biên đạo của Georges Balanchine) năm 1928, và concerto cho piano và dàn nhạc năm 1929. Ông còn tiếp tục tham gia lĩnh vực chỉ huy từ năm 1923 với nhóm nhạc 8 người với nhạc cụ hơi.
Sau khi mẹ, vợ và con gái qua đời, ông đã quyết định sang Mỹ vào năm 1939. Năm 1940, ông dưỡng bệnh lao phổi ở Hollywood, nơi có khí hậu gần giống vùng biển nước Pháp.
Trong hai năm 1947 và 1948, Stravinsky chủ yếu tập trung vào việc soạn nhạc cho một vở opera trữ tình “Sự hoàn lương của gã ăn chơi đàng điếm”, của nhà thơ nổi tiếng W.H. Auden viết (do Aldouo Huxley giới thiệu với Stravinsky). Vở opera này mô tả cuộc sống phiêu lưu của một chàng thanh niên được hưởng một gia tài kếch xù. Anh ta đã đánh mất cả linh hồn cho Nick Shadow, tượng trưng cho ác quỷ. Sử dụng phong cách âm nhạc và opera thế kỷ 18 (chủ yếu là Gluck và Mozart), Stravinsky và Auden đã lặp lại từ các aria, hợp xướng, tổng phổ… của một vở opera cổ điển. Buổi công diễn vở opera này ở nhà hát Fenice ở Venice năm 1951 dưới sự chỉ huy của chính Stravinsky đã đạt được thành công vang dội.
Ở giai đoạn này, Stravinsky dành nhiều thời gian cho niềm say mê đối với hệ thống nhạc 12 âm, một kỹ thuật soạn nhạc từng bị chính ông từ chối sự dụng trước đây. Những tác phẩm chính ông sáng tác vào thời gian này “Canticum sacrum ad honorem Santi Marci nominis” (1958) và “Threni id est Lamentationes Jeremias Prophetae” (1958), cả hai đều viết cho giọng hát, dàn hợp xướng và đàn harp cùng vở ballet Agon (1957) được xem là kết quả của quá trình ông nghiên cứu âm nhạc của Anton Webern trong suốt thời gian từ 1952 đến 1955.
Những năm cuối đời, dù sức khỏe suy yếu, Stravinsky đã trở lại nước Nga, quê hương mình. Ông qua đời vào ngày 6 tháng 4 năm 1971, và được yên nghỉ tại Venice, bên người bạn tri kỉ Serge Diaghilev.

Tác giả

(Visited 29 times, 1 visits today)