In illo tempore – Một thánh lễ liên văn bản

Trích dẫn nhiều văn bản từ nhiều nền văn hóa, nhằm đạt đến trạng thái hiệp thông làm một trong nội tâm, tập thơ “in illo tempore” của Nguyễn Thụy Đan mang dáng dấp của một thánh lễ liên văn bản, và cho phép độc giả đọc theo nhiều cách.

Tập thơ in illo tempore .

Chuyên về văn học kinh điển phương Tây, lại mới thành lập, nhà sách FORMApubli hiếm khi in tác phẩm của các cây bút Việt Nam đương đại. Tới nay, danh mục của FORMA mới chỉ có ba ngoại lệ: Nguyễn Thu Thùy, Nguyễn Chí Hoan, và Nguyễn Thụy Đan. Với sự bận tâm thường trực hướng cái vĩnh cửu, cái lâu bền hoặc kinh điển, bạn đọc và người duyệt bản thảo của FORMA đã tìm thấy gì ở ba tác giả này? Nếu phải đưa ra một phỏng đoán cho trường hợp cuối cùng, tôi sẽ viết rằng trong tập thơ tập thơ in illo tempore (ấn hành năm 2024), Nguyễn Thụy Đan đã thể hiện sự thành thạo và can đảm của mình khi dùng ngôn ngữ thơ để khám phá trạng thái chia cắt vĩnh cửu.

Dù kể những câu chuyện, phong cảnh và tâm cảnh khác nhau, các bài thơ trong in illo tempore đều mô tả cảm giác chia cắt. “Cố hương ở đâu, nếu không phải là nẻo bụi mù ký vãng” – Nguyễn Thụy Đan viết vậy, dù thoải mái dùng hàng không giá rẻ để qua lại giữa hai quê hương. Dù mới ba mươi tuổi và đang sống cùng gia đình, Nguyễn Thụy Đan viết di chúc gửi vợ con, viết lời chia tay những bài thơ tình thời chưa cưới, và viết thư gửi những con người cũ mà mình phải chôn cất khi sinh con trai đầu lòng. Khi viết về đức tin, Nguyễn Thụy Đan cũng mô tả những lần đánh mất và tìm lại không ngừng: “vì tiếng người dường đã hết lung linh / Chúa úa vàng giữa trang kinh nguyện cũ”. Trong thơ Nguyễn Thụy Đan, mọi con đường đều dẫn đến sự chia cắt, hoặc còn hằn vết sẹo chia cắt, kể cả con đường hiệp thông. Để bắt đầu bài thơ về Lễ Các thánh (All Saint’s Day), Nguyễn Thụy Đan viết thế này: “vì chưng đã không thể chung sống với những kẻ sống / hôm nay. tôi sẽ cùng chết với những kẻ chết”.

Vì sao ta không thể “chung sống với những kẻ sống”? Vì sự sống mang đến vận động, thay đổi và tranh giành – thứ tiềm ẩn chia cắt, tức là sự chấm dứt cái chung? Còn cái chết – tức sự chia cắt tối hậu – lại là điểm chung duy nhất của mọi sinh vật ở mọi thời? Và mọi nỗ lực để giữ lại hoặc sở hữu một vật sống đều chỉ tạo ra những vật chết – như một ảnh chụp, một dòng văn, một ngẫu tượng trên bàn thờ, hay một con bướm ép?

Nghịch lý đau đầu này xuất phát từ hai thực tế giản dị. Thứ nhất là một trò lừa của ngôn ngữ: hợp và tan, sống và chết chỉ là hai mặt của cùng một đồng xu. Hai người chưa gặp thì không thể chia tay, và một vật không sống thì cũng không thể chết: những mặt đối lập này chỉ xuất hiện khi tâm trí ta vạch một ranh giới cứng lên thực tại đang trôi chảy không ngừng. Thứ hai là một hiện thực sinh học: ta không thể sống mà không vạch ranh giới. Juri Lotman lưu ý rằng một vật chỉ được coi là sống khi có vách tế bào thực hiện cùng lúc hai chức năng đối nghịch: trao đổi chất với môi trường (hợp) và tách mình khỏi môi trường (tan). Vì hai chức năng này đối nghịch nhau, chia cách là trạng thái thường trực của sinh vật sống, và là một vùng biển không đáy để văn học dấn vào: mọi nỗ lực để làm chủ nó hoặc thoát ra đều mở một đường vòng đưa ta quay về với nó.  


Chia cách là trạng thái thường trực của sinh vật sống, và là một vùng biển không đáy để văn học dấn vào: mọi nỗ lực để làm chủ nó hoặc thoát ra đều mở một đường vòng đưa ta quay về với nó.  

Trong hoàn cảnh đó, lộ trình đáng chọn nhất sẽ không hướng đến một nơi chốn cụ thể, mà hướng đến một trạng thái dạo chơi. Nếu vĩnh cửu mang cả bộ mặt của sự sống và tái hợp lẫn bộ mặt của cái chết và chia ly, thì người ta hòa vào vĩnh cửu không phải nhờ hai thái cực này, mà nhờ sống trong thẩm mỹ của những cách chết và chia ly đẹp đẽ. Trong Thánh lễ, giáo dân ôn lại cái chết đẹp của Đức Jesus và các thánh tử đạo, soi mình vào gương hy sinh của các nhân vật trong truyện, nhờ đó dọn trống cái tôi của mình (kenosis) để đón tha nhân bước vào trong. Cơ chế hiệp thông này là chìa khóa để hiểu tập thơ mang tên in illo tempore (tạm dịch: “vào thời ấy”) – một thành ngữ mở đầu các đoạn Phúc âm thường được đọc trong Thánh lễ. 

Tu sĩ sống hiệp thông với Chúa, với các thánh và với giáo dân. Khi dự những thánh lễ riêng tư được mô tả trong thơ của mình, Nguyễn Thụy Đan đã mở rộng cuộc hiệp thông sang các lĩnh vực khác ngoài đức tin: lịch sử, nghệ thuật và văn hóa. Thơ của Đan mở những con đường bằng chữ xuyên thời gian, dẫn ta từ “phố Bolsa” in bóng Võ Phiến, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Mai Thảo… sang “Giang Nam” của Lý Dục và “đất trời” của Đỗ Phủ, từ đó tạt qua “sa mạc Nguyễn Thanh Châu”, nơi có cổng về ghế đá Sài Gòn những năm 60. Dọc đường, ta chứng kiến cuộc thương khó của vô số kẻ ly hương nổi danh hoặc khiếm diện, cầm bút hoặc lặng câm, mỗi người góp một nét mặt để họa nên khối căn cước đa dạng mà Nguyễn Thụy Đan phải mang vác. 

Nguyễn Thụy Đan. Ảnh do nhân vật cung cấp.

Nguyễn Thụy Đan là người Việt, là người Mỹ, là con của một dòng họ có truyền thống chữ nghĩa, là người Công giáo, là người sống trong mạt kỳ hiện đại – thời mà sự vỡ vụn, phân mảnh và chắp lại chi phối diện mạo của cả hình thức nghệ thuật, không gian đô thị lẫn các phương tiện truyền thông. Để những Nguyễn Thụy Đan rất khác nhau này có thể cùng lúc “là” nhau, và là một phần của các cộng đồng mà mình thuộc về, thơ của Nguyễn Thụy Đan phải dung chứa một lượng lớn các phép ẩn dụ thuộc về từng căn cước, cũng như những nghi thức được dùng để cử hành chúng trong đời sống hay trong văn bản. Trong một góc của thi tập, Nguyễn Thụy Đan kể rằng mình viết thơ để “xưng tội với Chúa”, và ở góc khác, Nguyễn Thụy Đan kể mình từng đọc những “câu chữ lận đận” của văn học như đọc “dòng huyền ngữ” trong Thánh Kinh. Để hiện đại hóa và mở rộng lối dùng điển tích trong thơ Hán cổ, Nguyễn Thụy Đan chế ra một loạt điển tích mới, đôi khi ngậm ngùi và đôi khi hài hước. Đó là “the winner takes it all”, “Cựu Kim Sơn”, “mùa thu Đoàn Chuẩn”, “tuẫn tình khúc” rực lửa của nàng Isolde, và cả “tin mừng theo Lưu Đức Hoa”… Theo cách này, Nguyễn Thụy Đan hòa lẫn những nghi thức thuộc các truyền thống khác nhau, đồng thời hòa lẫn tâm thế cổ điển và hiện đại, trong nỗ lực vượt qua những khía cạnh hữu hình và hữu hạn của cuộc chia cắt mãn tính. Chính nhu cầu hàn gắn này, cùng tri thức về các truyền thống Hán học và Thiên Chúa giáo mà Nguyễn Thụy Đan thu thập trên hành trình tìm kiếm gốc rễ của bản thân, đã thúc đẩy Nguyễn Thụy Đan quan tâm đến các dự đồ của phong trào thơ tân hình thức (New Formalism) ở Hoa Kỳ – đề tài được Đan đưa vào phân tích trong một bài nghiên cứu.1

Trên điểm này, Nguyễn Thụy Đan đã bước vào, và bước một cách thoải mái trong quỹ đạo của những người tìm kiếm cái kinh điển. Và Nguyễn Thụy Đan tiến tương đối xa trong đề tài chính của mình – sự chia cắt vĩnh cửu – vì đã dũng cảm làm Sisyphus lăn nó lên những ngọn đồi thơ. Thay vì thoa lên vết thương chia cắt một liều thuốc giảm đau làm từ những sáo ngữ như “hưng phế”, “hư không”, “vô thường” – một lối viết lười mà nhiều cây bút trung đại ở Á Đông cùng các hậu sinh thời nay đã và đang lạm dụng – Nguyễn Thụy Đan nhìn thẳng vào vết cắt, rồi khoét nó sâu hơn để quan sát các chi tiết bên trong. Nhờ đó, Nguyễn Thụy Đan ghi lại được những vực thẳm không đáy của cảm giác chia cắt mà mình từng chứng kiến trong đời, và sự vô vọng “bi hùng” của những cố gắng con người nhằm vượt qua chúng, như: “níu bút. bằng níu sự sống / níu bút. bằng níu tàn dư lý trí / níu bút. bằng níu nhau. ôi. những khối thịt / cô đơn trong ý thức”. Hoặc: “cứ thế. người sẽ thêm tuổi. trò chuyện với ma”. Nhờ tính phổ quát của chủ đề mà Nguyễn Thụy Đan viết về và độ chi tiết của những quan sát mà Đan ghi lại bằng thơ, in illo tempore có thể dung chứa những trải nghiệm riêng tư của nhiều người đọc, miễn là họ sẵn sàng lắng nghe ngôn ngữ dị biệt của nó.


Nhờ tính phổ quát của chủ đề mà Nguyễn Thụy Đan viết về và độ chi tiết của những quan sát mà Nguyễn Thụy Đan ghi lại bằng thơ, in illo tempore có thể dung chứa những trải nghiệm riêng tư của nhiều người đọc, miễn là họ sẵn sàng lắng nghe ngôn ngữ dị biệt của nó.

Trong tập thơ này, Nguyễn Thụy Đan đã dùng một lối viết khô, ngắn gọn và đứt đoạn, kể chuyện và suy tư nhiều hơn mơn trớn cảm giác, gần với tro tàn hơn ngọn lửa bếp hoặc pháo hoa. Khi tôi hỏi, Nguyễn Thụy Đan xác nhận rằng mình đã chủ động chọn lối viết này, nhằm tránh tính đa cảm thường gặp trong ngôn ngữ thơ Việt Nam truyền thống – một đặc điểm buộc nhiều người viết phải hy sinh chiều sâu suy tưởng để đổi lấy những chữ có vần, thuận tai, hoặc khơi gợi cảm xúc. Trong mắt Nguyễn Thụy Đan, một bài thơ không hay khi dịch sang ngôn ngữ khác là một bài thơ rỗng, chỉ gây ấn tượng bằng những chữ đẹp và kêu. Dù quan điểm này dễ làm mếch lòng những người yêu tiếng Việt, tôi nghĩ nó đã hình thành một cách hữu cơ từ cảnh đời của một người Mỹ gốc Việt thế hệ thứ hai, mà từ nhỏ đã phải sống song song bằng cả hai ngôn ngữ.

Cá nhân tôi tin rằng cách viết của Nguyễn Thụy Đan không những không gây hại, mà còn góp phần mở mang tiếng Việt. Khi suy nghĩ bằng nhiều thứ tiếng cùng lúc, tác giả sẽ ép tiếng Việt phải biểu đạt những ý niệm chưa quen thuộc với nó, nhưng đã hiện diện trong tiếng Anh hoặc tiếng Trung. Nhưng lối viết này cũng có nhược điểm: nếu ta tin vào giả thuyết của phân tâm học Lacan, rằng vô thức được cấu thành bởi các năng biểu (signifier) bị dồn nén – và nhiều signifier là từ ngữ chỉ có trong tiếng Anh hoặc tiếng Việt – ta sẽ thấy cách viết của Nguyễn Thụy Đan hạn chế khả năng giải phóng vô thức trong quá trình làm thơ. Nhìn các cơn mất ngủ được mô tả lặp đi lặp lại trong thơ của Nguyễn Thụy Đan, tôi đánh bạo đoán rằng đây là một ngôn ngữ thơ mất ngủ, tỉnh táo, ít tính mơ, vì vậy luôn đặt việc nắm bắt thực tế lên trên việc thỏa mãn các nhu cầu cảm xúc. Liệu có lối thoát nào mà tiềm thức đưa ra, nhưng ý thức thơ rắn rỏi đã lờ đi không dùng? Đó chỉ là giả thuyết, bởi để bù đắp cho nhược điểm vừa nêu, ý thức của Nguyễn Thụy Đan cũng đã chế ra nhiều điển tích hiện đại để làm năng biểu thay thế.

Nhưng sự chia cắt hữu hình nào đã làm nứt đôi thực tại của Nguyễn Thụy Đan, buộc anh phải liên tục dùng thơ để hàn gắn thực tại? Các bài thơ trong in illo tempo còn có một mẫu số chung khác, là sự hiện diện của những thẩm quyền “nam tính” như Chúa, thời gian, cố hương, ngôn ngữ, người cha. Các thẩm quyền này đều hiện lên với một vùng khuyết: Chúa “đằng đẵng lặng im” và “úa vàng giữa trang kinh nguyện cũ”; cố hương là “bộ lạc tuyệt tích bờ huyền thoại” đã lui vào “nẻo bụi mù ký vãng” của nhạc và thơ; ngôn ngữ “không đủ phép ẩn dụ” nên phải “lặng im”, lui lại để “nước mắt” giao tiếp thay cho lời. Trong khi đó, thời gian là “chuỗi ký ức khiên cưỡng” mà lời kể của cha áp lên tuổi đời của con, là dòng nhắn “chúng ta không còn hôm qua” được viết bằng chữ Hán để gửi cô bồi bàn Mỹ, là cảnh hai cha con “lặng lẽ ra đi” “tị nạn bình minh” từ một quán đêm ven đường, là một lịch sử đứt đoạn “đã cướp của bố con mình cả giọng Bắc”. Bước ra từ lịch sử ấy, người cha sống sót ăn những đĩa cơm ám mùi lên men của những cái chết trên biển, và đứa con “chưa một lần hiên ngang nhìn thẳng” người khác vì màu da bị kỳ thị cả khi đứng trước gương. Cảm thức chia cắt vĩnh cửu không tự dưng in bóng lên thơ Nguyễn Thụy Đan, nó đã xuất hiện như vọng âm của cuộc chia cắt mang tính lịch sử mà những người Mỹ gốc Việt thế hệ Nguyễn Thụy Đan phải thừa kế từ lớp người trước.

Đọc tiểu sử của Nguyễn Thụy Đan, ta thấy nơi Nguyễn Thụy Đan một nỗ lực liên tục để bù lại vùng khuyết của các thẩm quyền mà anh kế thừa. Chẳng hạn, trong lĩnh vực ngôn ngữ, Nguyễn Thụy Đan học tiếng Việt từ rất nhỏ để đọc sách Đạo, sách thơ tiếng Việt cho bà ngoại, người sinh năm 1920 và không biết chữ, cũng là người kể cho Nguyễn Thụy Đan câu chuyện về dòng họ có truyền thống chữ nghĩa. Năm 13 tuổi, khi về nước cùng gia đình và đi đủ ba miền, Nguyễn Thụy Đan bắt đầu tự học chữ Nôm qua từ điển để có thể “hiểu biết văn hoá quê cha đất tổ” thông qua việc tự “đọc sách người xưa”. Sau lần đầu nghe thơ của Bà Huyện Thanh Quan vào năm 16 tuổi, Nguyễn Thụy Đan học thêm tiếng Hán để nghiên cứu cổ thi, và sau khi tốt nghiệp Đại học Houston ngành Âm nhạc và Văn chương tiếng Anh, Nguyễn Thụy Đan chuyển sang nhiên cứu triết học và tôn giáo phương Đông, trước khi đến Hà Nội để nghiên cứu tại Viện Hán-Nôm thông qua học bổng… Đó là một hành trình dài để tái lập những thẩm quyền bị khuyết: tiếng Việt, tư cách “sĩ” và truyền thống Hán-Nôm, ký ức tập thể của Công giáo Đàng Ngoài, lối viết tiếng Việt ở miền Nam trước thống nhất, và lịch sử – yếu tố sau cùng giải thích mối quan tâm đặc biệt mà Nguyễn Thụy Đan dành cho việc lưu trữ văn chương và dựng lại phả hệ thơ. Dù vậy, có lẽ ấn tượng về sự khuyết thiếu và giao cắt của các thẩm quyền đã in rất đậm, khiến Nguyễn Thụy Đan đánh đồng sự khuyết với thẩm quyền cao nhất, từ đó liên tục viết về sự im lặng của Chúa, ngôn ngữ, người cha, dĩ vãng, cố hương, để rồi tạo nên một ngôn ngữ thơ gần với tro tàn và chứa nhiều hố thẳm.

Trong bài thơ cuối cùng, cũng là bài cùng tên với tập thơ, Nguyễn Thụy Đan mạnh dạn hoài nghi cả dĩ vãng lẫn hiện tại “không tròn ý nghĩa” đang cầm tù mình trong “tứ bề huyễn tượng” của “những lựa chọn khác”. Lối viết xếp chồng hiện tại và dĩ vãng, thứ tạo nên thánh lễ liên văn bản mà Nguyễn Thụy Đan sử dụng để vượt qua chia cắt, dường như bắt đầu trở nên đáng ngờ trong mắt Nguyễn Thụy Đan. Có lẽ Nguyễn Thụy Đan sẽ đi tiếp trong hành trình mở rộng ngôn ngữ thơ của mình. Đọc in illo tempore, tôi tự hỏi liệu có hay không những cách cầu nguyện và xưng tội không lời sao cho đẹp lòng một vị Chúa im lặng. □

—–

Chú thích:

1 Đoạn này đề cập đến phong trào thơ Tân hình thức Mỹ, ra đời hồi thập niên 1980, phân biệt với trào lưu thơ Tân hình thức Việt do Khế Yêm khởi xướng. Đọc thêm:

http://www.gio-o.com/AN/NguyenThuyDan TanHinhThuc.htm

Bài đăng Tia Sáng số 5/2025

Tác giả

(Visited 162 times, 11 visits today)