Khi hậu hiện đại ngưng nổi loạn
Các tư tưởng hậu hiện đại, vốn chiếm lĩnh ngành khoa học xã hội và nhân văn từ thập niên 1980, từng hứa hẹn mở ra một tầm nhìn mới cho tự do, nhưng đang trở thành một phương tiện giúp chủ nghĩa tư bản triệt tiêu sự phản kháng.

Đó là kết luận mà giáo sư nhân học David Graeber đưa ra trong bài viết “Nhân học và sự trỗi dậy của tầng lớp quản lý – chuyên môn”, được tạp chí Lí thuyết Dân tộc học HAU công bố năm 2014. Bằng phương pháp phân tích lịch sử từ góc nhìn kinh tế – chính trị, Graeber đã phê phán những thay đổi của môi trường học thuật khởi nên từ thập niên 1980 – khi chủ nghĩa tư bản bắt đầu biện minh cho cuộc xâm chiếm thị trường toàn cầu bằng các tư tưởng hậu hiện đại và danh nghĩa “toàn cầu hóa”. Từ bước ngoặt này, xu hướng thương mại hóa đã biến các trường đại học phương Tây thành lò sản xuất các chuyên gia và nhà quản lý hưởng đặc quyền, thay vì giữ lại những lý tưởng của người trí thức độc lập và các phong trào bình dân.1
Là một nhà nhân học uy tín và một lãnh đạo của phong trào biểu tình Chiếm phố Wall, Graeber đã đưa ra lý giải thuyết phục cho nhiều xu hướng tăng tốc suốt một thập kỷ sau nghiên cứu của mình – từ sự lên ngôi của các đảng cực hữu và phát-xít ở phương Tây, cho đến sự xóa bỏ tự do học thuật trong các trường đại học.
Từ toàn cầu hóa đến tài chính hóa
Sự hợp tác kỳ quặc giữa tư tưởng hậu hiện đại và chủ nghĩa tân tự do sẽ dễ hiểu hơn nếu ta tìm về một gốc rễ chung của hai hiện tượng này: toàn cầu hóa. Những năm 1970, khi toàn cầu hóa tạo ra các nền sản xuất cạnh tranh ở Tây Đức và Nhật Bản, đồng thời trói chặt các biến động kinh tế vào giá dầu ở Trung Đông, các nước phương Tây buộc phải ngả theo chủ nghĩa tân tự do, với tinh thần cơ bản là giảm chi tiêu công, giảm điều tiết kinh tế và tư nhân hóa mọi thứ. Gói giải pháp này bao gồm việc cổ phần hóa ồ ạt các doanh nghiệp trên toàn cầu, bãi bỏ các quy định kiểm soát ngành tài chính, và bãi bỏ bản vị vàng của đồng đô la, tức thả nổi giá đô la cho thị trường quyết định. Từ đây, bắt đầu quá trình tài chính hóa nền kinh tế toàn cầu, với kết quả là tư bản tài chính tiếm ngôi tư bản sản xuất, do hoạt động đầu cơ tài chính vừa sinh lãi nhanh hơn hoạt động sản xuất, vừa không bị các công đoàn và chính quyền địa phương kiểm soát. Nếu trước đây, các doanh nghiệp tư bản thường tồn tại như một tổ chức khép kín của các nhà quản lý kiêm chủ sở hữu và công nhân, thì từ thập niên 1970, nhà quản lý trở thành người làm thuê cho các nhà đầu tư trên toàn cầu. Xu hướng này, cùng sự suy yếu của các công đoàn bị đàn áp bởi các chính phủ tân tự do, đã khiến người lao động đánh mất sự đảm bảo về “việc làm suốt đời”, và bị sa thải ngay khi doanh nghiệp cần giảm chi phí sản xuất. Bản thân các chính phủ cũng bị tư nhân hóa – phần vì phải câu kéo các nhà đầu tư và doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh kinh tế toàn cầu, phần vì đồng tiền ngày càng chi phối khả năng sử dụng truyền thông đại chúng để vận động tranh cử, cũng như chi phối các cuộc vận động hành lang. Từ đây, chính phủ nhìn mọi vấn đề từ con mắt của nhà đầu tư, và xây dựng chính sách để tạo ra con số tăng trưởng sinh lời; thay vì thực hiện những nhiệm vụ truyền thống như bảo vệ chủ quyền quốc gia và cung cấp phúc lợi cho người dân – những điều không thể quy thành một con số tăng trưởng.
Chính phủ nhìn mọi vấn đề từ con mắt của nhà đầu tư, và xây dựng chính sách để tạo ra con số tăng trưởng sinh lời; thay vì thực hiện những nhiệm vụ truyền thống như bảo vệ chủ quyền quốc gia và cung cấp phúc lợi cho người dân – những điều không thể quy thành một con số tăng trưởng.
Sự tư nhân hóa nền chính trị, đến lượt nó, đã tước đi của người dân khả năng ý thức về bước ngoặt đang diễn ra. Graeber lưu ý hai thay đổi quan trọng xảy ra cùng lúc trong ngành truyền thông Mỹ thập niên 1980: các tờ báo đồng loạt sa thải phóng viên phụ trách mảng lao động, và các kênh truyền hình bắt đầu chạy dòng chữ cập nhật giá cổ phiếu liên tục ở cuối màn hình, như thể đó là thông tin công cộng thiết yếu. Lối đưa tin này, cùng sự xuất hiện ồ ạt của các quỹ hưu trí và các khoản vay để mua nhà, mua xe, tiêu dùng, đã khiến phần lớn dân số không còn nhìn mình như người lao động nữa, mà tưởng mình là tầng lớp trung lưu. Họ cũng đánh đồng lợi ích của mình với sự ổn định của hệ thống tài chính – thứ có thể khiến họ bị sa thải, hoặc mất sạch giá trị chứng khoán, tiền hưu trí và tiền gửi ngân hàng mỗi lần nó trục trặc. Họ không ý thức được thực tế rằng sự tài chính hóa nền kinh tế đang liên tục khiến họ nghèo đi do mất công việc ổn định, mất công đoàn và quyền thương lượng tập thể, mất phúc lợi xã hội, và sa vào các khoản nợ phải trả lãi lâu năm. Cuối quá trình này, người dân vỡ mộng, đánh mất niềm tin vào các thiết chế như chính phủ hay truyền thông, và sẵn sàng ngả theo bất cứ ai kêu gọi cắt giảm ngân sách cho các tổ chức đó. Càng cắt giảm ngân sách chính phủ, họ càng giảm bớt hàng hóa công, và đẩy nhanh quá trình tư nhân hóa, tài chính hóa toàn xã hội. Những gì còn sót lại của chính phủ dần biến thành một công cụ của các ngân hàng: nếu tòa án và cảnh sát phương Tây đầu thế kỷ trước chỉ bảo vệ quan hệ sở hữu, thứ giúp tư bản sản xuất thu lợi qua hình thức thuê mướn nhân công, thì tòa án và cảnh sát Mỹ hiện nay trực tiếp tham gia vào quá trình thu lợi này, thông qua việc cưỡng chế tịch thu tài sản của các sinh viên mắc nợ.

Cơ chế kiểm soát hậu hiện đại
Trong bối cảnh này, sự cắt giảm chi tiêu công đã biến các trường đại học thành doanh nghiệp, và biến giảng viên thành người làm thuê luôn sợ bị sa thải. Sau khi ra trường, sinh viên Mỹ thường phải trả các khoản vay học phí trong ít nhất 10 năm – con số này tăng đến 20 năm với người thu nhập thấp, và 45 năm, tức toàn bộ thời gian lao động, với người học các ngành như Luật hay Y tế. Để trả nợ và tránh bị sa thải, họ không còn lựa chọn nào khác ngoài tập trung thăng tiến, nhằm chiếm giữ các vị trí chuyên môn hoặc quản lý tại các tổ chức, doanh nghiệp hoặc cơ quan chính phủ đã hoàn toàn vận hành theo các nguyên tắc của chủ nghĩa tân tự do. Chính lớp người đỗ đạt này sẽ tạo thành một tầng lớp trung lưu mới, chôn chân trong các công việc hành chính lặp đi lặp lại, và hoàn toàn đồng nhất lợi ích của mình với các luật lệ của guồng máy.
Nền tảng tư tưởng chung của tầng lớp này, thật trớ trêu, lại là chủ nghĩa hậu hiện đại. Nó lý giải và biện minh cho toàn cầu hóa, thứ rốt cuộc thúc đẩy sự hình thành và lan rộng của chủ nghĩa tân tự do. Cái nhìn của hậu hiện đại về một thực tại phi trung tâm, phân mảnh và lai ghép hoàn toàn phù hợp với luật lệ của thị trường toàn cầu – nơi Giáng sinh bị bứt khỏi lời dạy về đời sống thanh bần trong Kinh Thánh để chuyển thành một lễ hội tiêu thụ tại mọi quốc gia. “Hầu hết các trọng tâm lý thuyết nhân học mới nổi lên trong thập niên 1980, như bản sắc (identity), tiêu dùng sáng tạo (creative consumption), các dòng chảy và cảnh tượng (flows and scapes)…, rốt cuộc đã mã hóa một dạng ‘vũ trụ học’ tân tự do thu nhỏ” – Graeber nhận xét.
Khi tôn “chủ nghĩa Foucault thô tục” thành chân lý duy nhất, người ta đã biến hầu hết dân số thế giới thành vô hình, đồng thời biến thương lượng chính trị thành logic duy nhất của các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Đây là bước lùi cho cả công bằng xã hội lẫn chất lượng và sự nghiêm túc trong học thuật.
Khi được dùng làm công cụ để quản lý các quan hệ quốc tế, các lý thuyết hậu hiện đại đã độc chiếm giảng đường đại học, và tạo nên một thứ “chủ nghĩa Foucault thô tục” (vulgar Foucauldianism). Trong mắt chúng, thế giới chỉ là không gian “của các mạng lưới và ‘giao tiếp chiến lược’, nơi mà trò chơi quyền lực tạo nên chính hiện thực xã hội, nơi mọi tuyên bố về chân lý đều chỉ là thủ đoạn, và các cưỡng chế vật lý tưởng như không tồn tại (dù trong thực tế chúng ngày càng hiện diện khắp nơi)”. Trong thế giới đó, quyền lực chỉ hiện diện qua “các kỹ thuật tự quản, các hình thức trình diễn bản thân, và những dòng chảy ảnh hưởng phân tán, phi tập trung vô tận”. Nhưng hoạt cảnh này chỉ phản ánh đời sống của tầng lớp chuyên gia – quản lý, những người có quyền tiếp cận các dòng chảy và thương lượng trong mạng lưới quyền lực phi tập trung; chứ không hề liên quan đến trải nghiệm của đa số người lao động trong xã hội, vốn bị tách khỏi sân chơi do sự bận rộn, nghèo túng, hoặc dùi cui cảnh sát. Khi tôn “chủ nghĩa Foucault thô tục” thành chân lý duy nhất, người ta đã biến hầu hết dân số thế giới thành vô hình, đồng thời biến thương lượng chính trị thành logic duy nhất của các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Đây là bước lùi cho cả công bằng xã hội lẫn chất lượng và sự nghiêm túc trong học thuật.
Đi xa hơn, các thực hành theo chủ nghĩa hậu hiện đại đã tạo ra những phương thức mới để xoa dịu và kiểm soát xã hội. Dẫn lời các nhà nghiên cứu thuộc truyền thống nữ quyền như Beverley Skeggs hay Marilyn Strathern, Graeber chỉ ra rằng thao tác phản tư (reflection) trong các thực hành này đang tạo thêm bất bình đẳng giữa các giai cấp. Nếu giới khoa bảng tự soi chiếu mình như những đại diện của cả quyền lực lẫn sự suy tư về quyền lực, thì mọi thành phần khác phải kể câu chuyện về nỗi đau, tội lỗi, sự hối cải và tái hòa nhập của mình – như thể họ phải chứng minh rằng mình là bộ phận yếu thế xứng đáng được quan tâm. Thao tác phản tư này vừa trùng khớp với nghi thức xưng tội trong truyền thống Kito giáo, vừa có nét tương đồng với văn hóa kiểm toán (audit culture) xuất hiện từ thập niên 1980 – trong đó các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu phải liên tục tự đánh giá mình để tự chào bán mình, tạo nên một chuỗi các thủ tục hành chính kéo dài vô tận nhưng hoàn toàn vô nghĩa. Ngày nay, ngay cả giới học thuật, hoạt động xã hội và nghệ sĩ độc lập cũng bị cuốn vào những thủ tục hành chính này, thứ hoàn toàn xa lạ với các tiền bối của họ trước thập niên 1980.
Điều trớ trêu là hình ảnh của chủ nghĩa hậu hiện đại vẫn gắn liền với các huyền thoại về cuộc khai sinh nó trong thập niên 1960, thời mà Foucault xuống đường biểu tình, và các trường đại học vẫn đang là thành lũy của các phong trào xã hội cánh tả. Vì vậy, khi tầng lớp đỗ đạt vừa chiếm giữ mọi vị trí từng dành cho người lao động trong các đảng dân chủ xã hội/trung tả, vừa trở thành cấp quản lý chống kháng lợi ích của người lao động trong các tổ chức, doanh nghiệp và cơ quan; người lao động nhanh chóng thù địch với toàn bộ luồng tư tưởng này, và chuyển sự ủng hộ sang các chính khách cực hữu tuyên bố chống lại nó. Đây là bản chất của làn sóng cực hữu đang dâng lên ở các nước phương Tây. Tất nhiên, lối đi này lại dẫn đến một vòng luẩn quẩn khác, do các đảng cực hữu luôn đứng về phía lợi nhuận thay vì về phía người lao động.
Đâu là lối thoát khỏi tình huống này? Graeber đưa ra một phương án giản dị: thay vì gói gọn đời sống và cái tôi của mình trong những thiết chế học thuật và nghệ thuật đã bị nhào nặn bởi chủ nghĩa tân tự do, các cư dân của trường đại học có thể trò chuyện với những loại người khác trong những bối cảnh khác, thông qua các thiết chế mà họ tự lập ra, chẳng hạn như các phong trào xã hội. Trong những không gian tự quản đa dạng đó, mỗi người có thể “từ bỏ tâm thế phòng thủ đầy âu lo của một ‘doanh nhân học thuật’ bị chuyên nghiệp hóa, để thừa nhận rằng điều đã cuốn hút ta đến với nghề này chính là niềm vui khi chơi đùa với các ý tưởng”; và ta không nên từ bỏ mục đích ban đầu đó chỉ để sống sót trong môi trường chuyên môn. Nếu có đủ can đảm và đoàn kết để từ bỏ các đặc quyền và cơ hội thăng tiến mà hệ thống mang lại, người ta có thể sống với phẩm giá và niềm vui mình từng kiếm tìm. Suy cho cùng, các xã hội tương đối bình đẳng không phải là nơi ai cũng cư xử như một nông dân hay công nhân nhiều bó buộc, mà là nơi ai cũng cư xử với phẩm giá ngang một quý tộc phương Tây – Graeber nhận xét.□
——
Nguồn tham khảo:
1 https://davidgraeber.org/papers/anthropology-and-the-rise-of-the-professional-managerial-class
Bài đăng Tia Sáng số 15/2025