Louis Braille (1809 – 1852) – Người đem lại ánh sáng cho thế giới bóng tối
Vừa qua hàng trăm thành phố và địa phương trên thế giới đã tổ chức kỉ niệm 200 năm ngày sinh của Louis Braille (1809 - 1852), người đã khai sinh hệ thống chữ nổi Braille. Phát minh của ông đã làm thay đổi sâu sắc cuộc sống của hàng chục triệu người khiếm thị trên toàn cầu. Chính vì lẽ đó mà ông đã được toàn thế giới kính trọng và vinh danh là “Người đem ánh sáng lại cho thế giới bóng tối”.
Cuộc đời
Louis Braille sinh ngày 4/1/1809 tại Coupvray, một làng nhỏ cách Paris khoảng 30 cây số về phía Đông. Không ai nghĩ là một ngày nào đó Louis Braille sẽ được yên nghỉ bên cạnh những nhân vật nổi tiếng ở điện Panthéon – nơi chôn cất và tôn vinh những nhân vật lịch sử, những người đã làm rạng danh cho nước Pháp.
Cha ông là một thợ làm đồ da và Braille là con út trong gia đình có 4 người con. Vào năm 1812 khi gần 4 tuổi, trong xưởng làm việc của cha , Braille đã bị một vật nhọn đâm vào mắt làm hỏng con mắt trái. Vì thời bấy giờ người ta chưa hiểu biết nhiều về vấn đề vệ sinh vết thương, nên ít lâu sau con mắt còn lại cũng bị nhiễm trùng và cũng bị hỏng nốt. Từ đó, ông vĩnh viễn sống trong thế giới của bóng đêm.
Dẫu bị mù, nhưng từ nhỏ Louis Braille đã tỏ ra là một cậu bé khéo tay, sáng tạo. Đây cũng là một điểm mạnh góp phần vào việc phát minh ra chữ Braille của ông sau này. Cha mẹ của Braille đã chăm lo cho người con bất hạnh của mình khá chu đáo. Họ đã cho Braille vào học ở trường dành cho người khuyết tật. Sau đó, vào năm 1819 khi Louis được 10 tuổi, cha mẹ ông đã xin được học bổng cho Braille vào trường Hoàng gia cho người khiếm thị trẻ (Institution Royale des Jeunes Aveugles) tại Paris. Đây là một trong số những trường đầu tiên trên thế giới dành cho người khiếm thị. Tuy nhiên, điều kiện sống và sinh hoạt tại trường này khá hà khắc về vật chất lẫn tinh thần. Thêm vào đó, trường lại ẩm thấp, thiếu ánh sáng và không khí trong lành, chính những yếu tố này đã góp phần làm ông bị bệnh lao và mất vì bệnh này về sau.
Tại trường, ông và các học sinh được dạy các kỹ năng cơ bản dành cho người khiếm thị. Bên cạnh đó, ông còn được học nhạc, học làm một số vật dụng thủ công. Braille đã tỏ ra là một học sinh sáng dạ và sáng tạo. Ông là một tay đàn cello, piano nổi tiếng ở trường và được đi trình diễn tại nhiều nhà thờ khắp nước Pháp.
Các học sinh trong trường thời đó cũng được thầy giáo, là bác sĩ Guillié, dạy đọc. Nơi Braille học, chỉ có 14 quyển sách và dĩ nhiên Braille đã đọc tất cả. Nhưng chữ viết kiểu này là quá khó khăn cho người khiếm thị khi đọc, và đặc biệt là người khiếm thị hầu như không thể “viết”; vào lúc đó, người ta nói rằng tại Paris chỉ có 4 người khiếm thị có thể đọc thông thạo.
Vào năm 1821, khi mới 12 tuổi Braille đã bắt đầu nghĩ đến việc sáng tạo ra một loại chữ viết mới cho người khiếm thị và hoàn thiện nó vào năm 1824, lúc ông vừa tròn 15 tuổi. Đó chính là chữ nổi Braille.
Năm 1828, Braille được nhận làm trợ giảng và sau này được bổ nhiệm làm thầy giáo thực thụ tại trường. Ông dạy đủ mọi môn như văn phạm, lịch sử, địa lý, số học, đại số, hình học, piano, violoncello… Braille đã nhanh chóng trở thành một thầy giáo giỏi như ông đã từng là học trò giỏi và được các học sinh kính trọng.
Từ những năm 1830 ông bắt đầu có những triệu chứng của bệnh lao phổi, vì vậy ông bớt dần giờ dạy. Đến năm 1840, ông chỉ còn dạy âm nhạc. Vào đầu tháng 12/1851, ông bị thổ huyết nặng. Sức khỏe yếu dần và ngày 6 tháng giêng 1852 ông qua đời, khi vừa tròn 43 tuổi. Ông được chôn cất tại Coupvray theo yêu cầu của gia đình.
Đến năm 1952, đúng một thế kỷ sau khi mất, thi hài ông được cải táng và đưa đến an nghỉ ở điện Panthéon tại Paris (nơi tính đến nay chỉ có 65 danh nhân của nước Pháp được vinh dự này). Đó là sự ghi nhận cho những đóng góp của ông đã góp phần làm tôn vinh nước Pháp.
Khi Braille còn bé, có một hệ thống chữ được sử dụng là chữ Barbier. Barbier là tên của một sỹ quan trong quân đội Pháp, người đã phát minh ra loại chữ mang tên ông. Khởi thuỷ, phát minh của Barbier là để phục vụ cho yêu cầu của Napoleon: Tạo ra một loại ký hiệu để binh sỹ có thể giao tiếp với nhau trong đêm tối một cách thầm lặng để đảm bảo yếu tố bí mật. Chính vì vậy chữ Barbier được gọi là “chữ viết của bóng đêm”. Nhưng hệ thống chữ của Barbier khá phức tạp, do đó cuối cùng nó không được sử dụng cho quân đội.
Năm 1821, Barbier có dịp ghé thăm trường nơi Braille theo học, và giới thiệu chữ Barbier cho học sinh khiếm thị. Khi đó, Braille đề nghị với Barbier một số cải tiến để làm cho chữ Barbier thuận tiện hơn. Nhưng Barbier đã không mảy may lưu tâm đến các đề xuất của Braille – lúc bấy giờ chỉ là cậu bé mới 12 tuổi.
Chính vì vậy, Louis Braille đã quyết tâm tự sáng chế ra hệ thống chữ của mình từ ý tưởng của hệ thống chữ Barbier. Ông hiểu rằng để cho người khiếm thị dễ đọc thì mỗi chữ cái phải được ký hiệu đơn giản và gọn, sao cho mỗi chữ cái có thể được nhận ra bằng một đầu ngón tay. Từ đó, chữ Braille được hình thành dựa trên cơ sở các ô hình chữ nhật, mỗi ô gồm 6 chấm xếp thành 3 hàng và hai cột được đánh số thứ tự từ 1 đến 6. Trên cơ sở đó, các chữ cái và ký hiệu được tạo ra. Ông đã hoàn chỉnh hệ thống chữ nổi của mình vào năm 1824, khi vừa tròn 15 tuổi.
Sau đó, ông đã mở rộng hệ thống chữ viết của mình cho các ký hiệu trong toán học và âm nhạc. Ông đã viết quyển sách đầu tiên của mình bằng chữ Braille vào năm 1829 với nhan đề: “Phương pháp viết chữ, bài nhạc bằng các dấu chấm dành cho người khiếm thị”. Năm 1839 Braille đã cho phổ biến chi tiết hệ thống chữ viết của mình với công chúng. Sau đó cùng với bạn mình, Pierre Foucault, ông đã chế tạo ra một thiết bị để hỗ trợ việc viết chữ Braille được nhanh chóng hơn.
Từ năm 1854, hệ thống chữ Braille được chính thức đưa vào giảng dạy tại tất cả các trường khiếm thị tại Pháp trước khi được du nhập vào những quốc gia khác trên toàn thế giới.
Chữ Braille tại Việt Nam
Hệ thống chữ Braille đã được người Pháp đưa vào Việt Nam từ cuối thế kỉ thứ 19. Do mẫu chữ Braille nguyên bản là các chữ cái Latinh, không có các chữ cái tiếng Việt như Â,Ă,Ê,Ơ… cho nên các trường khiếm thị tại Việt Nam đã tự sáng tạo ra các chữ cái đó theo cách riêng của từng trường. Hệ quả là hệ thống chữ Braille sử dụng cho người khiếm thị ở nước ta trước đây có sự không thống nhất giữa các miền và các trường. Vì vậy dẫn đến việc người khiếm thị ở các địa phương khác nhau rất khó hiểu trong việc đọc các chữ viết của nhau và điều đó đã gây nhiều khó khăn cho người khiếm thị trong việc giao lưu, hội nhập. Bên cạnh đó, khi các học sinh khiếm thị muốn học cao lên thì hệ thống chữ Braille ở nước ta chưa đáp ứng được các ký tự đặc biệt của các môn học có nhiều ký hiệu phức tạp như hoá học, toán học…
Trước tình hình đó, năm 2003 Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Trẻ khuyết tật thuộc Viện Khoa học Giáo dục, với sự hỗ trợ của tổ chức CRS (Tổ chức Cứu trợ và Phát triển) đã tổ chức hội thảo, tiến hành xây dựng và thống nhất hệ thống kí hiệu chữ Braille cho người khiếm thị Việt Nam.
Trong số các cơ sở có nhiều thành tựu trong việc đào tạo người khiếm thị, một điểm sáng cần ghi nhận là Trường Phổ thông Đặc biệt Nguyễn Đình Chiểu TP.HCM. Được thành lập từ năm 1926, với tên gọi đầu tiên là Trường Mù Sài Gòn. Vừa qua, trường đã tổ chức lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Braille và 20 năm ngày ra đời bậc giáo dục Trung học Cơ sở dành cho người khiếm thị (1989-2009). Trong dịp này nhà trường đã giới thiệu bộ sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 12 bằng chữ Braille đầu tiên ở Việt Nam dành cho học sinh khiếm thị.
Chữ Braille thời kỹ thuật số
Chữ nổi Braille là món quà tuyệt vời cho những người bị mất đi ánh sáng. Tuy nhiên việc tiếp cận thông tin với người khiếm thị vẫn có nhiều hạn chế đặc biệt là đối với những người có nhiều khó khăn trong việc đọc chữ Braille, hay đối với việc giao tiếp bằng chữ viết người bình thường. Để khắc phục điều này, nhiều thiết bị hỗ trợ đã được nghiên cứu, thiết kế để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người khiếm thị trong giao tiếp. Một số thiết bị đáng lưu ý như:
– Máy phiên dịch chữ Braille (xem hình): Máy phiên dịch chữ Braille như chiếc găng tay một ngón. Máy sẽ nhận biết các chữ nổi thông qua đầu dò ở đầu ngón tay trỏ. Sau đó, thông tin sẽ được xử lý tại bộ phận dịch của máy nằm ở lưng bàn tay. Thông tin đã xử lý sẽ được chuyển đổi thành âm thanh và được bluetooth đưa đến tai nghe, người sử dụng chỉ việc nghe máy dịch và tiếp nhận thông tin một cách dễ dàng, thuận lợi.
– Máy in chữ Braille: Có nhiều loại máy in chữ Braille, các máy in này cho phép chuyển đổi nhanh từ các văn bản bình thường trên file, trên web… sang chữ nổi Braille.
– Màn hình Braille: Hay còn được gọi là màn hình xúc giác, đây là một loại công nghệ màn hình mới. Loại màn hình xúc giác này, dựa trên một loại vật liệu polymer thông minh, sẽ cho phép người khiếm thị có thể sử dụng máy tính, rút tiền từ máy ATM hoặc thậm chí… gửi tin nhắn qua điện thoại di động.
Chữ Braille đã làm giảm đi phần nào nỗi bất hạnh, nâng cao kiến thức cho cộng đồng người khiếm thị. Trong kỷ nguyên kỹ thuật số hiện nay, chữ viết Braille, hơn bao giờ hết, lại tỏ rõ tính ưu việt của mình trong việc tương thích với các kỹ thuật của thời đại mới. Nó mở ra một chân trời bất tận cho người khiếm thị trong việc tiếp cận với tri thức nhân loại, với việc học tập ngày một cao hơn, mở ra một triển vọng cho người khiếm thị hoà nhập ngày một sâu rộng hơn với xã hội.
Từ ngày 18 đến 20 tháng 6 vừa qua, tại thị trấn Coupvray, quê hương ông, Ủy ban Quốc tế Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Louis Braille (CINAL) đã tổ chức một hội nghị quốc tế với mục đích tôn vinh những đóng góp vô giá cho nhân loại của ông- “Người đem ánh sáng lại cho thế giới bóng tối”.