Lý do để viết*
Có lý do gì để viết, khi mà sự viết  với Nhã Thuyên thường không phải là kể lại một “câu chuyện làm quà”?!
Vì sao phải viết? Viết để làm gì?
Làm một bộ phim hay vẽ một bức tranh, là bởi muốn thấy cái tác phẩm ấy hiện ra ở một tình trạng hoàn hảo, để được thưởng thức một sản phẩm được hoàn thành. Còn viết, nếu chỉ để được thấy câu chuyện của mình hiện dần ra trên trang giấy thì quả là một công việc tẻ nhạt, một kết quả không mong đợi. Đó là vấn đề sáng tạo nhìn từ phía tác giả-những người trong cuộc. Đối với những người viết khác, không biết đó có phải là tâm lý phổ biến không? Nhưng với Nhã Thuyên, tôi thấy có tâm lý đó. Hay nói khác đi là thấy một thao thức thường trực về viết. Lý do để viết. Có lý do gì để viết, khi mà sự viết (với Nhã Thuyên) thường không phải là kể lại một “câu chuyện làm quà”?!
Với Nhã Thuyên, trước hết viết chưa bao giờ là nhiệm vụ, mà viết như một khả năng và khả tính. Viết là khơi ra những cảm trạng, hàm chứa sự khoái lạc. Viết cũng là lạc lối mê lộ. Nhưng, viết cũng là để giữ mình.
“Để không bao giờ viết nữa, hắn ngồi mài mười ngón tay xuống đá ngày này sang ngày khác cho đến khi hai bàn tay trụi lủi. Khi đó, hắn lại bắt đầu công cuộc tập viết bằng các ngón chân”
Đó là một truyện cực ngắn của Nhã Thuyên có nhan đề Cuộc đời tẻ nhạt. Trong truyện ngắn này, chúng ta chỉ thấy hành động nhằm chấm dứt sự viết của nhân vật. Một nhân vật không có tên tuổi, trống vắng tiểu sử, cũng không rõ là hắn viết “cái giống gì”, nổi danh hay vô danh. Chỉ biết là hắn từng viết và không muốn viết nữa. Hắn ngồi mài ngón tay để vô hiệu hóa công cụ viết. Nhưng khi hai bàn tay trụi lủi rồi thì hắn lại khởi động tập viết bằng chân. Như vậy, viết là hành động không cưỡng được, nó nằm bên trong, vừa có gì đó lay lắt, nhưng cũng thật bền chặt. Viết là vô thủy vô chung.
Và, như thế cứ viết. Viết để quên lý do viết.
Kiệm chữ, dồn nén, truyện ngắn của Nhã Thuyên xem ra khá “mặn mòi” với những phương thức ẩn dụ, cài đặt biểu tượng và cả “thơ tính”. Hiện thực đời sống, ở một chừng mực nào đó như bị cố tình phớt lờ đi. Nhưng, thật thú vị và lấy làm cảm khoái, khi thấy cuộc sống được tác giả cấu trúc lại, nuôi sống những mẩu nguyên sơ nhất. Cái cách mà tác giả tiếp cận đời sống, rồi mô tả trong truyện ngắn của mình, có thể chỉ có ở những người trẻ đang sống với một bầu máu nóng, và một tâm hồn sạch sẽ. Hay chí ít, thì những gì được kể lại cũng ở một trạng thái nhẹ nhàng và thanh thản nhất.
Ở tập truyện ngắn này, với tư cách một người viết và người đọc, tôi thấy có những truyện thật hay. Tôi muốn dẫn nguyên ra đây truyện Hai kẻ đào huyệt để chúng ta cùng đọc:
Tôi đứng từ xa nhìn đám trẻ đang nô đùa trên một khoảng đất rộng nhão nhoét bùn, nhưng bùn không hề bị lún xuống. Những đứa trẻ nhảy nhót, la hét với gương mặt phấn khích hoang dã tạo thành một vòng tròn lớn.
Ở giữa vòng tròn ấy, một cặp vợ chồng đang hì hụi đào hai khoảng đất hình chữ nhật, rộng và sâu, nhìn là biết hai người đang đào huyệt. Nước ròng ròng chảy ra từ các kẽ đất, họ vẫn mải miết cắm thuổng vào đào đào mãi và hai chân vẫn vững vàng trên khoảng bùn nhão.
Tôi quan sát họ làm, hai cái huyệt lớn dần dần hình thành.
Họ gọi hai đứa con gái đến: – Xuống múc hết nước ở dưới đi con.
Tôi hét lên: – Đừng, đừng để bọn trẻ xuống. Xuống là chúng ở luôn đấy đấy.
Tôi hoảng sợ thật sự, vì là tôi, chắc chắn tôi ở luôn đấy. Dưới đó mát, lành, cảm giác như huyệt của người Thiên Chúa, tôi đã nghĩ vậy. Tôi sợ hãi họ sẽ lấp đất chôn hai đứa con như người bố đã lừa lũ trẻ vào rừng sâu trong truyện cổ. Tôi sợ hãi người ta tìm ra những cách lừa bọn trẻ con.
Dưới đó mát, lành, là tôi chắc chắn tôi sẽ không lên. Nhưng là tôi, chứ bọn trẻ bị lấp chôn thì không thể. Tôi đứng hốt tim.
Nhưng hai đứa trẻ đã làm khô ráo hết nước ở dưới và lại leo lên và chạy đi và nhảy nhót.
Hai vợ chồng nhìn tôi, ý nói: Mày thấy chưa, chúng nó chẳng ở yên đấy đâu mà sợ.
Nói rồi họ nhìn nhau mỉm cười: Bây giờ thì chúng ta có thể yên ổn được rồi.
Họ nhảy xuống và tôi chẳng còn nhìn thấy gì nữa.
Tôi đứng nghĩ, người lớn và trẻ con, hai thế giới phân lập, và tôi luôn là kẻ đứng nhìn từ xa, tôi lo sợ hão huyền và chẳng bao giờ biết được điều gì thực sự xảy ra cả.
“Tôi luôn là kẻ đứng nhìn từ xa, tôi lo sợ hão huyền và chẳng bao giờ biết được điều gì thực sự xảy ra cả”. Đó là một trạng thái, hay một thái độ? Tôi cho rằng đó là một sự hiểu biết, một tư chất nhà văn. Còn cái cảnh đào huyệt trên kia, với những đứa trẻ con, nó chính là cuộc sống, nếu được nhìn theo nghĩa ẩn dụ, hay nhìn như một cảnh đời, đều mang lại cảm giác rất đặc biệt. Chúng ta biết gì về cuộc đời này? Mà chúng ta lại hay có tâm lý viết như những kẻ ban ơn, truyền dạy. Chúng ta, có lẽ “chẳng bao giờ biết được điều gì thực sự xảy ra”. Và chính điều chẳng bao giờ biết đó, chính là đạo đức của người viết.
Nếu như ai đó cho rằng, nhà văn đồng thời phải là nhà tư tưởng, thì tôi nghĩ cũng không cần thiết. Nhưng nhà văn nên là những kẻ đam mê tư tưởng. Và, văn chương là gì, nếu không phải là một cách dẫn chuyển nỗi đam mê tư tưởng của mỗi tác giả. Đó cũng là một điểm phân biệt giọng giữa tác giả này với tác giả kia.
Nhã Thuyên cũng là một tác giả đang hình thành giọng của mình. Tuy nhiên, trong khi thao tác thiết kế văn bản, tác giả có vẻ thường trực “ý thức toàn cảnh”, khiến làm hao hụt đi cái bất ngờ. Alain Robbe- Grillet, ông hoàng của trào lưu Tiểu thuyết mới (nouveau roman) cho rằng: ‘Viết là bắt cây cầu nối liền mình và mình, nhưng đôi khi thay vì kết nối hai bờ của một vực thẳm, nó lại nới rộng thêm khoảng cách… Và, chính trong khoảng cách này xuất hiện những gì được viết ra”. Những gì được viết ra trong cái “khoảng trống” đó, có khi là những sơ xuất, nhưng nó làm cho người đọc được dự phần vào, được tùy nghi, được “giải lao”… Còn với Nhã Thuyên, cái khoảng trống đó có vẻ ít ỏi. Trò chơi ngôn ngữ với tâm thức hậu hiện đại trong tập truyện này cũng được “bày bố” khá nhiều, khiến trang văn chưa đạt tới độ tự nhiên, với một vẻ “ung dung tự thích” mà tác giả có ý thức hướng tới.
Với hai tập truyện ngắn và một bản thảo thơ, Nhã Thuyên là một tác giả trẻ vẫn đang trên đường, đang viết. Với những gì thể hiện ở tập truyện ngắn này, Nhã Thuyên đã tạo dựng nên một phong cách viết mới, cùng với các cây bút trẻ khác, tạo nên một thế hệ viết mới. Và, có lẽ từ đây cũng hình thành một thế hệ độc giả mới.
(*) Lời bạt cho tập truyện ngắn “Ngón tay út” của Nhã Thuyên, Phương Nam Book và NXB Hội Nhà văn ấn hành, 7/2011
—-
Một số truyện ngắn rút trong tập “Ngón tay út” của Nhã Thuyên
Để không bao giờ viết nữa, hắn ngồi mài mười đầu ngón tay xuống đá ngày này sang ngày khác cho đến khi hai bàn tay trụi lủi. Khi đó, hắn lại bắt đầu công cuộc tập viết bằng các ngón chân.
Trong một đêm yếu đuối, quá khứ trở lại nghẹt thở tim nàng. Nàng nằm thức, bởi chỉ nhắm mắt giấc mơ sẽ kéo trĩu nàng xuống như thể có bàn tay từ một nấm mồ của người đã chết. Nàng sợ hãi bởi nàng biết mình đã luôn đợi chờ điều ấy, nàng biết chắc chắn mình sẽ bám chặt lấy bàn tay ấy để được kéo đi, trong đêm tối, cho dù phải đổi cả mạng sống và không bao giờ tỉnh dậy.
Nàng nhắm mắt đợi. Một bàn tay. Một người đã chết đứng trước mặt, cạnh giường nàng. Nếu không chỉ cần một tiếng gọi thôi, chỉ cần một tiếng gọi mơ hồ như tiếng gió. Người chết trở lại. Một gặp gỡ. Nàng đợi trong sợ hãi vì biết mình sẵn sàng đổi cả mạng sống của mình nếu xảy ra được cuộc gặp ấy. Nàng đợi trong sợ hãi vì biết mình sẵn sàng đổi cả mạng sống của mình nếu xảy ra được cuộc gặp ấy.
Nàng nức nở tuyệt vọng một đêm dài. Bởi dù thế nào, những giấc mơ cũng bị đánh thức. Bởi nàng không thể được không tỉnh dậy. Bởi dù có tự nguyện đổi cả mạng sống và không sợ hãi, thì điều ấy, cuộc gặp gỡ ấy sẽ chẳng bao giờ có được bên ngoài những giấc mơ.
Nàng ngủ lịm một giấc ngắn rồi tỉnh, đứng trước gương soi, gỡ bộ tóc đặt xuống bàn và nhẹ nhàng tháo não ra khỏi hộp sọ. Nàng nâng khối não mềm mại phập phồng những nếp nhăn và cẩn thận đặt nó xuống bồn nước để rửa. Nàng lấy ngón tay út khẽ lách qua những nếp nhăn một cách cẩn trọng, quan sát kĩ đến từng khe hẹp. Ánh sáng mặt trời rỡ rỡ chiếu vào mắt nàng nhìn khối não, chấp choáng những vết đen. Nhưng nước vẫn lạnh cóng. Nàng, lúc này, là một nỗi khoái bẫng bẫng. Có lẽ cái hộp sọ rỗng khiến nàng di chuyển như một dải mây loãng, không hề có cảm giác về lượng của thân xác. Một cái não nặng thế ư? Mà bỏ ra, nó rút đến kiệt gần 43 kilo khối thân thể?
Nàng lật từng lớp mềm, lấy ngón tay quệt nước lên những vệt đen để rửa. Tất nhiên, sẽ chẳng có một loại hoá chất nào có thể và được sử dụng (nàng biết, nàng không đủ can đảm và lười nhác đến mức sử dụng hoá chất) cho công cuộc làm sạch này. Rất nhiều những vết đen, to nhỏ khác nhau, lốm đốm, cũng có những vết nâu vàng hoặc màu xanh, nhưng nàng sẽ chỉ tẩy những vết đen, nhất là những vết xu đen thẫm, những vết đen mà nàng ghét, những vết đen quỷ dữ, lũ quỷ đen mọi rợ, những vết đen có lúc làm nàng choáng váng nhớ lại những đoạn kí ức tối tăm, những khốn đốn, nàng biết, những nỗi hoảng hốt, sự lầm lỡ, những tình cảm dại nghếch và ảo tưởng, sự phóng đãng, những vết xu đen ô uế, cuồng dại, bị phỉ nhổ; cả những vết đen nàng đã quên, nhưng dưới ánh mặt trời, chúng hiện ra, như những ảo ảnh, nàng biết, có thể đó chỉ là những vết đen ảo, nó không còn trong não nàng, nàng không phải mất công tẩy rửa nó, nhưng hình như nó còn, trong không gian, trong não của một kẻ nào khác đã phóng chiếu đến khối não của nàng,… những vết đen chẳng bao giờ có thể làm nàng yên nếu chỉ với những an ủi nhạt thếch môi và những lời nguyện cầu; những vết đen mà có thể kẻ khác sẽ còn nhắc lại quấy rối nàng (ồ, một lũ ngốc, nàng biết vậy, nhưng phải làm sao?). Có những vết đen mỏng như bồ hóng nàng rửa hết sức dễ dàng, chúng biến mất sạch sẽ như chưa từng tồn tại, nhưng có những vết đen chạm vào là đau đớn, nỗi buốt nhót giần giật từ đầu ngón tay, chạy qua các mạch máu và đường gân trong cơ thể nàng, lan đến cổ và vùng da mặt, nhưng nàng không có cảm nhận ở hộp sọ rỗng, có những vết đen nàng cứ hoài công rửa mãi rửa mãi cho đến khi nhận ra nó chỉ là một ảo ảnh dưới ánh nắng mặt trời… Nàng biết, sẽ chẳng thể nào rửa sạch hết những vết đen trong những khe não tối tăm, bí mật, những nếp nhăn sâu kín từ một lỗi lầm của tuổi thơ chưa được phơi bày, một sự va chạm đau đớn nào đó trong kí ức với một vật thể cứng đanh bên ngoài, những bí mật (có lẽ nàng phải có chứ) cả đời sẽ không được phanh phui… Và khi một kẻ khác, dưới ánh mặt trời, nhìn thấy đó chính là những vết đen, thì,…
Hai lựa chọn cho đoạn tiếp theo:
1. Đến lúc mỏi nhừ cơ thể, nàng kết thúc việc rửa não, cảm thấy thảnh thơi và sáng trong hơn, một cơn sáng trong ngây thơ khiến nàng bỏ quên khối não ở đó. Ánh nắng chói gắt làm não khô héo. Não chết nhanh và êm ái trong trời sáng rỡ. Thực chất thì không ai biết rằng não, khốn khổ thấy không thể gột sạch những nốt đen sâu kín, đã tự tử một cách êm đẹp, khi nắng tràn sáng rỡ len vào các nếp nhăn sâu.
2. Rửa xong, thảnh thơi và sáng trong, nàng nhẹ nhàng đem não ra hong gió và nắng, và những niềm vui trở lại, nàng khe khẽ đặt não trở lại hộp sọ. Nàng biết, từ đây, cuộc sống của nàng sẽ có một khoái cảm mới, một thói quen mới. Chắc chắn, còn những vết đen không sao tẩy rửa hết – bằng nước sạch không hoá chất, và từ đây, nàng sẽ định kì – hoặc ngẫu hứng cũng có thể, mở hộp sọ để rửa não. Nàng sung sướng trong cơn đau oằn, nhói lên như ánh sáng, cẩn trọng gột rửa từng chút một như bà mẹ kì cọ từng mảng da thịt của đứa bé, như người đàn ông tỉ mẩn lau bụi bám trên bình rượu quý, như một tội đồ thích thú xoá đi những vết dấu lầm lạc trong những ngày tháng đã qua, như những nỗi phù hoa trôi qua, để chúng như chưa từng tồn tại. Và những điều đó, cả những tội lỗi, sẽ trở lại, như chưa từng tồn tại.
Trong những chuyện gẫu với bạn bè, hắn úp mở niềm thích thú trở thành hình mẫu hoặc điểm gợi hứng của rất nhiều nhân vật trong các tác phẩm của người khác, khi đẹp đẽ, khi mỉa mai, khi cảm thương. Nhưng khi đối diện với chính mình, hắn biết, nỗi khốn khổ suốt đời hắn, sẽ không bao giờ sẽ không bao giờ sẽ không bao giờ hắn có đủ khoảng cách và điều khiển được ngôn ngữ để viết-ra-mình-như-một-nhân-vật.
2007