Mạng lưới hải thương quốc tế: Những mảnh ghép Việt Nam
Một mạng lưới giao thương năng động xuyên biển đã hiện diện ở Đông Nam Á ngay từ thế kỷ thứ nhất, và vùng đất ngày nay là Việt Nam, cũng trở thành một trong những mắt xích quan trọng của mạng lưới này.

Năm 2023, vở opera Công nữ Anio được chính thức công diễn ở Việt Nam và Nhật Bản, giới thiệu cho khán giả Việt Nam và Nhật Bản cuộc đời của công chúa Ngọc Hoa, con nuôi của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, và mối tình của nàng với thương nhân Nhật Bản Araki Sotaro. Lấy cảm hứng từ một câu chuyện có thật, vở opera là một lát cắt nghệ thuật phản chiếu sự giao thương kinh tế, trao đổi văn hóa và kết nối quốc tế ở Hội An thế kỷ 17, thương cảng sầm uất bậc nhất xứ Đàng Trong mà nay thuộc miền Trung Việt Nam.
Trong lịch sử Việt Nam không thiếu những thương cảng quốc tế như thế. Vân Đồn, Phố Hiến, Long Biên, Thanh – Nghệ – Tĩnh… đều trở thành các điểm nút giao thương của Việt Nam với các quốc gia Đông Á, Arab, châu Âu. Những thông tin chi tiết được phát lộ theo thời gian đã đem lại các mảnh ghép mới cho bức tranh hải thương và vai trò năng động của Việt Nam trong mạng lưới thương mại quốc tế ngay ở thiên niên kỷ đầu tiên sau Công nguyên.
Cho đến nay, người ta mới thống nhất rằng, tiền xu của các quốc gia Đông Nam Á xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ tư sau Công nguyên, trong khi tiền xu từ Ấn Độ, La Mã, Ba Tư và Trung Á có thể đã có mặt tại đây vào thế kỷ thứ hai trước Công nguyên.
Mới đây, một bộ sưu tập các đồng xu cổ đại đã đem lại một miếng ghép quan trọng về bức tranh nhiều lớp này.
Đồng xu, dấu vết về giao thương quốc tế
Các đồng xu cổ đại luôn có nhiều điều để nói với chúng ta về quá khứ. Không chỉ chỉ dấu về sự tồn tại của các tương tác trao đổi hàng hóa giữa các thương nhân, chúng còn đem đến cái nhìn sâu sắc về hệ thống kinh tế, tôn giáo, chính trị, trao đổi văn hóa của các xã hội trong lịch sử. Những đồng tiền cổ tham gia vào việc mở rộng thị trường và đặt nền móng cho các nền kinh tế cũng như các đế chế. Nhóm các nhà nghiên cứu ĐH Quốc gia Singapore, trong bài báo mới xuất bản trên tạp chí Antiquity của NXB Đại học Cambrige cho rằng, nếu đi sâu vào phân tích yếu tố phân bố địa lý của các đồng xu cổ “cũng đem lại những hiểu biết quan trọng về quy mô và tính phức tạp của các mạng lưới thương mại sơ khai, đặc biệt khi được kết hợp với các bằng chứng khảo cổ học khác từ nghiên cứu về đồ gốm, chữ khắc và sản phẩm hàng hóa nhập khẩu”.
Nguyên nhân thúc đẩy nghiên cứu về các đồng xu cổ lưu hành ở Đông Nam Á là vì ngày càng có nhiều bằng chứng lịch sử và khảo cổ cho thấy, các quốc gia trong khu vực là các điểm nút quan trọng trên mạng lưới thương mại và trao đổi văn hóa xuyên khu vực. “Ngay từ thế kỷ thứ tư trước Công nguyên, một mạng lưới rộng lớn các tuyến đường biển, vận chuyển và đường bộ kết nối các cảng thương mại (trung tâm thương mại) từ Cận Đông đến Trung Quốc qua Vịnh Ba Tư, Ấn Độ Dương và Biển Đông”, họ phân tích về vai trò của các quốc gia Đông Nam Á, đồng thời nhấn mạnh, những ghi chép của Trung Quốc cũng lưu ý đến các quốc gia Đông Nam Á trong mạng lưới từ cuối thời nhà Hán, đi kèm các tuyến đường thương mại, cảng biển, hàng hóa, cống nạp và phong tục, tập quán, thậm chí quá trình “Ấn Độ hóa”. Các cuộc khai quật từ thế kỷ 20 đã cho thấy những sản phẩm hàng hóa trao đổi trên tuyến đường hải thương này, như các đồ thủy tinh La Mã, trang sức Ấn Độ, đồ gốm Ba Tư, Trung Quốc, đi kèm với nhiều loại tiền xu cổ trên các tuyến sông và địa điểm trung chuyển ven biển trên khắp Đông Nam Á.

Nhu cầu trao đổi hàng hóa trong mạng lưới giao thương xuyên biên giới này đã dẫn đến sự hiện diện của tiền. Tuy nhiên, cho đến nay người ta vẫn chưa biết nhiều về lịch sử ra đời tiền đúc của Đông Nam Á do thiếu các nguồn ghi chép về việc sử dụng hoặc sản xuất. Người ta mới thống nhất rằng, tiền xu của các quốc gia Đông Nam Á xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ tư sau Công nguyên, trong khi tiền xu từ Ấn Độ, La Mã, Ba Tư và Trung Á có thể đã có mặt tại đây vào thế kỷ thứ hai trước Công nguyên.
Trong số các loại đồng xu cổ được phát hiện ở khắp Đông Nam Á có thể thấy loại phổ biến nhất, có mặt trên khắp các địa điểm khảo cổ là đồng xu Rising Sun/Srivatsa: những đồng bạc có hình Mặt trời mọc ở một mặt và Srivatsa (biểu tượng ban đầu trong truyền thống tôn giáo Ấn Độ) ở mặt còn lại. Những đồng xu này được tìm thấy từ Bangladesh đến Việt Nam, bao gồm những phần thuộc khu vực Đông Nam Á đã được Ấn Độ hóa, nhưng so với các đồng xu phổ biến như tiền La Mã, Ấn Độ hoặc Trung Á, chúng vẫn chưa được nghiên cứu nhiều. “Không đồng xu cổ nào ở Đông Nam Á lại được phân bố rộng rãi như những đồng mang họa tiết Rising Sun/Srivatsa”, TS. Andrew Harris của ĐH Quốc gia Singapore, trao đổi trên tạp chí Antiquity. “Điều này cho thấy bằng chứng rõ ràng về sự lưu thông hàng hóa mở rộng trên những chặng đường dài”.
Bộ sưu tập hơn 245 đồng xu Rising Sun/ Srivatsa nguyên khối được khai quật từ nhiều di chỉ khảo cổ ở Myanmar, Campuchia, Việt Nam và Thái Lan, nghĩa là có nguồn gốc rõ ràng, giờ được bảo quản trong bảo tàng các quốc gia này. Tại Việt Nam, các đồng xu Mặt trời được tìm thấy ở di chỉ Óc Eo, An Giang, nơi mà từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ 8 sau công nguyên là kinh đô và trung tâm đô thị sầm uất bậc nhất của Vương quốc Phù Nam hùng mạnh (nay trở thành một phần hiện vật ở Bảo tàng Lịch sử TPHCM).
Giới khảo cổ đã chứng minh là tiền xu Mặt trời mọc đã là một trong số nhiều loại tiền xu có nguồn gốc từ khu vực Myanmar, với một mặt mang biểu tượng của nhà nước, mặt sau mang nghĩa tôn giáo. Nền kinh tế dựa trên tiền tệ và các mối liên hệ chính trị tạo điều kiện thuận lợi cho các đồng xu cổ này trở thành đồng tiền được công nhận và được sử dụng trong giao thương ở khắp khu vực Đông Nam Á.
Điểm xuất phát của nghiên cứu này là xem xét các đồng xu cổ như một phần không thể tách rời của mạng lưới kinh tế và văn hóa rộng lớn hơn, không phụ thuộc vào biên giới hiện đại như chúng ta thấy hiện nay, qua đó đi tìm mối liên hệ giữa các đồng xu cổ trên toàn khu vực Đông Nam Á. Giới khảo cổ đã chứng minh là tiền xu Mặt trời mọc đã là một trong số nhiều loại tiền xu có nguồn gốc từ khu vực Myanmar, với một mặt mang biểu tượng của nhà nước, mặt sau mang nghĩa tôn giáo. Nền kinh tế dựa trên tiền tệ và các mối liên hệ chính trị tạo điều kiện thuận lợi cho các đồng xu cổ này trở thành đồng tiền được công nhận và được sử dụng trong giao thương ở khắp khu vực Đông Nam Á.
Một phần của mạng lưới giao thương hàng hải
Sự hiện diện của các đồng xu cổ trên nhiều vùng địa lý cho thấy người ta hình dung phần nào về quy mô và độ phức tạp của các mạng lưới thương mại Đông Nam Á hai nghìn năm trước. Một điều dễ nhận thấy là mạng lưới đường bộ và đường biển không tồn tại riêng rẽ mà có sự kết nối với nhau dọc theo hệ thống sông Irrawaddy, Chao Phraya và trên khắp bán đảo Mã Lai. “Những tuyến đường này tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa đa dạng, với việc tiền xu rất có thể vừa đóng vai trò là tiền tệ vừa là kho dự trữ giá trị vàng thỏi, mặc dù giá trị giao dịch cụ thể vẫn chưa rõ ràng”, các nhà nghiên cứu viết trong công bố “Currents of currency: utilising die studies to trace Rising Sun/Srivatsa coin distribution in first-millennium AD Southeast Asia”.

Đặt các đồng xu cổ vào bối cảnh Đông Nam Á thời điểm đó, có thể thấy là chúng được tìm thấy ở những vùng đất thuộc các xã hội được tổ chức theo hình thái nhà nước sớm, Pyu-Mon – các thị quốc Pyu từng tồn tại dọc theo sông Irrawaddy và các nhánh của nó quanh vịnh Martaban ở vùng đất nay là miền Trung và miền Bắc Myanmar; Dvaravati – các thị quốc của người Môn dọc sông Chao Phraya mà ngày nay thuộc Thái Lan; và Phù Nam – đế chế được hình thành ở vùng đất ngày nay thuộc Trung và Nam Bộ Việt Nam. Các vùng đất này đã được tích hợp vào các hệ thống kinh tế rộng lớn hơn của khu vực Đông Nam Á vào thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên. “Dữ liệu càng làm nổi bật sự di chuyển của tiền xu Mặt trời mọc/ Srivatsa trên khắp Đông Nam Á, làm sáng tỏ hoạt động sản xuất và phân phối tại địa phương của những đồng tiền này, cũng như vai trò của chúng như những biểu tượng có giá trị cả trong và ngoài bộ máy nhà nước tập trung”, các tác giả phân tích.
Một trong những phát hiện của nghiên cứu này là tìm ra mối liên hệ giữa các đồng xu được tìm thấy tại hai địa điểm xa nhất về mặt địa lý, đó là miền Đông Bangladesh/Bengal (hiện đang ở Bảo tàng Anh) và Óc Eo (hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử TPHCM). Điều này chứng tỏ “sự lưu thông đường dài về phía Đông và phía Tây của tiền xu Mặt trời từ lưu vực sông Irrawaddy qua vịnh Martaban”, các nhà khoa học viết.
Mối liên hệ giữa các đồng xu ở hai địa điểm xa nhất, đó là miền Đông Bangladesh/Bengal (hiện đang ở Bảo tàng Anh) và Óc Eo (hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử TPHCM) chứng tỏ “sự lưu thông đường dài về phía Đông và phía Tây của tiền xu Mặt trời mọc từ lưu vực sông Irrawaddy qua vịnh Martaban”.
Trước đây, người ta đã nhận diện được các kết nối thương mại giữa vùng biển Andaman – một biển nằm giữa bờ biển phía Đông Ấn Độ và bán đảo Mã Lai, với Myanmar ở phía Bắc và đảo Sumatra của Indonesia ở phía Nam – với vịnh Thái Lan. Hải trình thương mại tấp nập này đã thay đổi từ khi Vương quốc Srivijaya lấy Sumatra làm trung tâm, trỗi dậy vào thế kỷ thứ bảy và kiểm soát vùng biển này. Do đó, các tuyến đường xuyên biển đã bỏ qua khu vực này để tìm những hải trình mới, xuyên bán đảo về phía Bắc, một lối tắt được kịp thời bổ sung, dựa trên hiểu biết về gió mùa nên tránh phải đi vòng quanh bán đảo và tiết kiệm được nhiều tháng di chuyển. Thậm chí, cuốn sách của nhà địa lý La Mã Claudius Ptolemaeus là Hyphegesis Geographic cũng đề cập đến các tuyến đường vận chuyển qua bán đảo. Dữ liệu lịch sử từ những đồng xu cổ Rising Sun/ Srivatsa lại càng chứng tỏ, những nơi tìm thấy chúng không chỉ là nơi sử dụng đồng tiền cho các giao dịch thương mại mà còn có thể là các trạm trung chuyển hàng hóa chính trên tuyến đường vận chuyển cổ đại giữa biển Andaman và vịnh Thái Lan.
Nếu coi các đồng xu cổ là chất xúc tác kết nối mạng lưới giao thương thì việc nhìn sâu vào các trạm trung chuyển mang ý nghĩa đánh giá tác động nên nền kinh tế xã hội của các quốc gia cổ đại. Do đó, các nhà nghiên cứu tập trung vào các đồng xu cổ có nguồn gốc từ hai khu vực ở ĐBSCL là Óc Eo, vùng phụ cận ở An Giang, và Angkor Borei, Campuchia – khu vực được coi là trung tâm văn hóa và kinh tế của Phù Nam cổ đại. Người ta tin rằng Phù Nam đã có phạm vi ảnh hưởng lớn ở vịnh Thái Lan, liên kết các mạng lưới thương mại duyên hải Ấn Độ và Trung Quốc. Vào thời kỳ đó, hai khu vực này được kết nối với nhau bằng các kênh đào, vốn được nhà khảo cổ học người Pháp Pierre Paris phát hiện vào những năm 1940, và sau được khám phá là có ý nghĩa quan trọng trong đời sống kinh tế – văn hóa Phù Nam, khi nối liền các địa điểm sản xuất nông nghiệp với các trung tâm thương mại duyên hải.
Cánh cửa nhìn về một quá khứ huy hoàng
Những phần đã được phơi lộ cho chúng ta thấy Óc Eo, An Giang, dưới thời Vương quốc Phù Nam là giao điểm chiến lược của mạng lưới hải thương quốc tế. Có biết bao câu hỏi đặt ra về sự vận hành của mạng lưới hải thương, về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và cả những con người sống ở Óc Eo thời điểm đó.

Việc kiên nhẫn lật lại từng lớp, từng lớp hiện vật và tìm ra thông tin, ý nghĩa của nó cũng có thể giúp chúng ta hình dung được phần nào quá khứ huy hoàng này. Bộ sưu tập hiện vật Óc Eo không chỉ có những đồng xu cổ mà còn có những đồ trang sức và những vật dụng của đời sống hằng ngày như bàn mài đá… hé mở cho chúng ta những lát cắt quá khứ. Năm 2020, một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế, trong khuôn khổ dự án ‘The Archaeology of the North Coast of Bali: a Strategic Crossroads for Early Trans-Asiatic Exchange’ (2012–2015), đã tìm ra điểm tương quan trùng hợp giữa các bộ trang sức, các hạt thủy tinh vàng kiểu La Mã và những chiếc gương đồng người Hán ở khu mộ đá Pangkung Paruk, Bali (Indonesia) và ở Óc Eo, Giồng Cá Vồ của ĐBSCL và bán đảo Thái Lan – Malaysia, điều mà họ nhận xét là “chưa từng có tiền lệ”. Một nét độc đáo là các hạt vàng ở Óc Eo đều là những hạt vàng đa diện, chính xác là gồm mười hai mặt. Hình dạng của nó phản chiếu thứ hình học mà người Hy Lạp theo trường phái Pythagoras phát minh ra (vào thế kỷ thứ năm trước Công nguyên) và kỹ thuật chế tác tinh xảo của người La Mã. Nói chung việc chế tạo các hạt thủy tinh vàng La Mã cũng khá phức tạp với cấu trúc hai lớp, gồm một lớp vàng mỏng bên trong lớp thủy tinh nóng chảy, khi hoàn tất phần thủy tinh sẽ vừa bảo bọc vừa làm gia tăng độ lấp lánh của vàng. Các hạt thủy tinh vàng này đã theo các thương gia La Mã đi khắp thế giới, từ Trung Đông, Nam Á đến Đông Nam Á và trở thành một phần của quá trình toàn cầu hóa còn sớm hơn người ta tưởng tượng.
Món cà ri thơm ngon ở Óc Eo không chỉ hé mở cho chúng ta thấy một phần văn hóa ẩm thực người Phù Nam khi sẵn sàng tiếp nhận ẩm thực từ bên ngoài mà còn cho thấy một bối cảnh trao đổi văn hóa, xã hội rộng lớn hơn, bên cạnh giao thương buôn bán quốc tế.
Dữ liệu từ phân tích hiện vật đem lại cái nhìn sâu sắc về mạng lưới xuyên Á từ đầu đến giữa thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên, nối liền Đông Nam Á với Nam Á, thế giới La Mã và Trung Quốc. Trong đó, Óc Eo không chỉ là nơi người dân tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế mà còn cả khai thác, chế tác vàng, đặc biệt là trang sức vàng. Kỹ thuật pha tạp vàng, bạc và đồng của các nghệ nhân Óc Eo cổ đại cũng lên tới đỉnh cao để tạo ra vàng thỏi, một dạng vật phẩm vàng trong giao dịch buôn bán.
Đó có phải là những gì còn sót lại về thế giới huy hoàng đó? Một cái nhìn cận cảnh về cuộc sống đời thường đã được tiết lộ qua một món ăn mà ngày nay đã trở nên quen thuộc và phổ biến ngoài Ấn Độ, nơi phát tích của nó: cà ri. Có thể, món ăn thơm nồng gia vị này đã theo chân các thương gia người Ấn Độ tới Óc Eo từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Họ hẳn đã định cư trong một khoảng thời gian nhất định, đủ để truyền cái tình yêu và sự ham thích món cà ri cho người bản địa, khiến cho họ cũng lập tức đón nhận cả các công cụ giã, nghiền bột cà ri từ Ấn Độ và hơn nữa, nhanh nhạy chế tác các công cụ đó ngay tại chỗ.
TS. Nguyễn Khánh Trung Kiên (Trung tâm Khảo cổ, Viện KHXH Vùng Nam bộ – Viện Hàn lâm KHXHVN) và các cộng sự quốc tế đã nhận diện được món cà ri cổ nhất Đông Nam Á này qua những dấu vết mờ nhạt của tinh bột còn sót lại ở dụng cụ nghiền và giã, một phần của quá trình chế biến cà ri: nghệ, gừng, bồng nga truật/ngải bún, địa liền, riềng, đinh hương, nhục đậu khấu và quế. Dấu vết này cho thấy ‘cư dân địa phương đã thực sự sử dụng các công cụ này để chế biến thực phẩm, bao gồm cả việc nghiền thân rễ, hạt và thân cây gia vị để tạo hương vị”, TS. Hsiao-chun Hung, ĐH Quốc gia Australia, viết trong một bài báo giới thiệu kết quả nghiên cứu trên The Conversation.
Để nấu được một món ăn ngon và hợp khẩu vị từ một công thức ngoại nhập xa xôi, chắc hẳn người đầu bếp Phù Nam đã trải qua một quá trình “thử và sai”, từ bắt chước hoàn toàn công thức gốc của người Ấn Độ đến những sáng tạo, gia giảm thêm bớt theo cảm nhận khẩu vị của mình, hoặc có thể là trong những tình huống như thiếu đi một gia vị nào đó đã bổ sung một nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Thời gian và khẩu vị đã làm tròn công thức thú vị và mới mẻ này, bằng việc giữ nguyên các gia vị chủ chốt như quế, nhục đậu khấu và đinh hương, có thể đã được nhập khẩu vào Óc Eo từ các địa điểm xa xôi ở Nam Á và miền Đông Indonesia, hoặc cũng có thể từ việc ươm trồng cây tại chính Óc Eo. Sáng tạo của người đầu bếp bản địa là đã cải biên, bổ sung một số nguyên liệu quen thuộc khiến cho món cà ri Óc Eo khác biệt với cà ri Ấn Độ, qua đó tạo ra một truyền thống ẩm thực độc đáo và khác biệt. Có thể thấy, bên cạnh các gia vị được du nhập từ Nam Á còn có một số gia vị đặc hữu của Đông Nam Á như Riềng, ngải bún, địa liền, nước cốt dừa. “Ngày nay, cà ri vẫn phổ biến ở Đông Nam Á, và các thành phần nguyên liệu thu được từ Óc Eo phù hợp hơn ở Đông Nam Á hiện đại so với Nam Á khi được trộn với các loại gia vị đặc hữu và được làm đặc bằng nước cốt dừa. Ví dụ, riềng là một thành phần phổ biến của bột cà ri ở Đông Nam Á nhưng hiếm khi được sử dụng trong cà ri Ấn Độ, tương tự như ngải bún và địa liền trong cà ri Thái Lan”, TS. Nguyễn Khánh Trung Kiên và cộng sự nhận xét. Sau hai nghìn năm, món cà ri ở Việt Nam và Đông Nam Á vẫn không thay đổi nguyên liệu, điều đó cho thấy sức sống mãnh liệt của một công thức ẩm thực.
Món cà ri thơm ngon ở Óc Eo không chỉ hé mở cho chúng ta thấy một phần văn hóa ẩm thực người Phù Nam khi sẵn sàng tiếp nhận ẩm thực từ bên ngoài mà còn cho thấy một bối cảnh trao đổi văn hóa, xã hội rộng lớn hơn, bên cạnh giao thương buôn bán quốc tế. Gia vị không là một nguyên liệu tầm thường, nó chính là một mặt hàng quan trọng của thị trường toàn cầu xuyên Á và xuyên lục địa, một thứ phẩm vật không ngờ lại mang sứ mệnh “ngoại giao văn hóa”, “ngoại giao ẩm thực”. Lịch sử cay nồng của gia vị, như ví von của TS. Hsiao-chun Hung, có thể nói với hậu thế nhiều điều quý giá về thế giới cổ đại. Thậm chí, điều này còn đúng theo nghĩa đen khi hạt nhục đậu khấu trong bàn nghiền Óc Eo vẫn còn tỏa hương thơm như nó vốn có.
Những phần mới được phát lộ đang kể cho chúng ta một lịch sử huy hoàng của một mạng lưới giao thương hàng hải mà Việt Nam là một mắt xích, một trạm trung chuyển quan trọng. Quá trình toàn cầu hóa ấy không chỉ đem lại sự thịnh vượng, giàu có cho những vùng đất và con người mà còn đem lại cho họ một vị trí độc đáo, đầy tinh thần sáng tạo trong cuộc trao đổi bí quyết công nghệ và văn hóa xuyên biên giới hai nghìn năm trước.
Nhưng có lẽ, như một quy luật nghiệt ngã của lịch sử, không có gì vươn lên vĩnh viễn. Phù Nam với kinh đô Óc Eo lừng lẫy rồi sẽ hoàn toàn biến mất vào giữa thế kỷ thứ 7, khép lại sự tồn tại của một đế chế mà rút cục cũng chỉ là một chớp mắt trong lịch sử tiến hóa rộng lớn hơn của trái đất, và để lại những ánh hồi quang lóng lánh từ những hiện vật trong bảo tàng hoặc còn sót lại đây đó trong lòng đất đen. □
Tài liệu tham khảo:
“Currents of currency: utilising die studies to trace Rising Sun/Srivatsa coin distribution in first-millennium AD Southeast Asia”. Antiquity. 2025
“Trans-Asiatic exchange of glass, gold and bronze: analysis of finds from the late prehistoric Pangkung Paruk site, Bali”. Antiquity. 2020
“Earliest curry in Southeast Asia and the global spice trade 2000 years ago”. Science Advences. 2023
“Luminescence dating of canal sediments from Angkor Borei, Mekong Delta, Southern Cambodia”. Quaternary Geochronology. 2007
“Gold in early Southeast Asia”. ArchéoSciences / Journal of Archaeometry. 2009
Bài đăng Tia Sáng số 18/2025