Một loại thơ đang chết, một loại thơ khác vừa ra đời

Cho dù chủ nghĩa hiện đại chưa có nhiều thành tựu tại Việt Nam, về thi pháp, nó đã làm nên một thay đổi lớn.

1. Tại sao? T.W. Adorno: “Làm một bài thơ sau Auschwitz là điều dã man”. Dã man – không sai. Khi Tòa tháp đôi vừa bị khủng bố đánh đổ, thiêu sống hàng ngàn con người ưu tú; khi các vụ nổ bom tự sát giết chết hàng vạn sinh linh vô tội diễn ra mỗi ngày; khi Trái đất đang bị khai thác và tàn phá đến cạn kiệt; khi bất công và tội ác đang bành trướng khắp nơi, ngày càng lồ lộ và trắng trợn hơn bao giờ… mà nhà thơ đóng cửa phòng văn để “làm vần” và “làm thơ thuần túy”, thì không khác gì đồng lõa với sự dã man.

Việt Nam giai đoạn qua, thơ dù ế đến đâu cũng là thể loại văn học luôn ở thế thượng phong. Sau thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa là thơ lãng mạn hậu thời, đồng hành với loại thơ sau là thơ tiền hiện đại. Thơ Việt nhộn nhịp và rộn ràng, nhưng nó vẫn thế, không có cuộc thay đổi lớn nào xảy ra, ở đó. Nghĩa là tuyệt đại đa số người làm thơ và thưởng thức thơ vẫn chịu sự phủ sóng của dòng “người làm vần”. Không làm vần thì “tiếp hiện” (tiếp nhận và thể hiện). Tiếp hiện Thơ Mới, Thơ Cách mạng, và khác… Thơ Việt chỉ có thể thôi sao? Nếu cứ mãi giậm chân tại đó, thơ Việt đi về đâu? Câu hỏi đặt ra và nhận ngay câu trả lời: Chỉ bằng cách cắt đứt vớt cuống rốn truyền thống thơ cũ, chôn sống Thơ Mới, mới hi vọng làm mới thơ. Thế là ngay từ những năm đầu thập niên 50 của thế kỉ XX, cuộc cách tân thơ theo hướng hiện đại chủ nghĩa được mở ra cấp kì. Bởi những con người tiên phong đầy tài năng. Nhân văn – Giai phẩm ở miền Bắc; ở Sài Gòn là nhóm Sáng tạo. Mở ra với bao thử nghiệm, nhưng chưa bay tới đâu, mà đã bị gẫy cánh khắp nơi. Bởi nhiều nguyên do khác nhau, trong đó nguyên do chính yếu là ở quan niệm về thơ. Quan niệm đầy trí tuệ đến khó hiểu, khiến thơ tối nghĩa và, độc giả khó tiếp nhận. Công cuộc cách tân thơ Việt luôn đụng phải bức tường định kiến cổ hủ về thơ và cả sự lười biếng của con người.

2. Thế nhưng, cho dù chủ nghĩa hiện đại chưa có nhiều thành tựu tại Việt Nam, về thi pháp, nó đã làm nên một thay đổi lớn. Thơ hiện đại Việt khác hẳn với các loại thơ trước đó. Khác ở nhạc tính nội tại, hình ảnh phân mảnh chắp vá, và nhất là ngôn ngữ “thuần túy” để nói lên điều mới mẻ chưa thể gọi tên, nhằm phơi lộ đời sống phức tạp nội tâm con người, con người cá thể ở bề sâu, bề tối của vô thức và tiềm thức với những đè nén, ẩn ức, những thôi thúc còn chưa được khai phá.

Ở cuối đêm
em rũ tóc nói những lời mê sảng

những ám hiệu

của mặt biển đen không tình yêu tuyệt vọng

anh xé tóc em cùng những cánh lá chết

mùa thu

gây thương tích nơi cườm tay

anh xô ngã em từ chóp đỉnh hạnh phúc

    (Thanh Tâm Tuyền, “Đêm”, Tôi không còn cô độc, NXB Người Việt, Sài Gòn, 1956)

Hôm qua tôi ghé alfa
Alfa không có nhà

Ô gặp nhau rồi sao vẫn cứ li

Một nắm hột khuya rắc vào bếp lạ

Đời gì

Sao cứ đi đi, những cái va li cứ về Bến lạ!

(Đặng Đình Hưng, “Bến lạ”, Bến lạ (viết khoảng cuối những năm 1970)

Hai đoạn thơ rất tiêu biểu cho thơ hiện đại Việt. So với các loại thơ trước đó, nó rất khác. Khác từ quan niệm dẫn đến khác ở thi pháp và thủ pháp. Tuyệt giao với thơ vần, bài thơ với câu thơ dài ngắn không đều, nhịp chỏi, vân vân… là những thứ hoàn toàn xa lạ với truyền thống đọc thơ của người Việt. Để cuối cùng, khác lớn và dễ nhận ra hơn cả chính là: tính khó hiểu của nó. Cho nên, hơn nửa thế kỉ đi qua, thơ hiện đại Việt vẫn là những gì khó tiếp nhận. Mà đâu chỉ với độc giả Việt. “Đặc tính của thơ hiện đại được bàn cãi nhiều nhất là tính khó hiểu và tối nghĩa của nó” (D. Schwartz).

Từ [ca dao hay thơ vần] dễ hiểu bẻ ngoặt sang thơ “hiện đại” khó hiểu; từ thơ [tiếp hiện Thơ Mới] tương đối dễ hiểu, chưa chuẩn bị hành trang tối thiểu, nhà thơ đưa độc giả nhảy ngay sang đọc thứ thơ [siêu thực, tượng trưng] bí bức tối nghĩa. Rồi tối nghĩa với khó hiểu kia vẫn đang được thế hệ sau đó “tiếp hiện” lại. Tiếp hiện sang tận thế kỉ XXI.

Bỏ qua kẻ làm thơ tư tưởng còn mờ tối đã vội cho ra đời những bài thơ tối tăm, mù mịt; bỏ qua bao thái độ bắt chước, học đòi, làm dáng, giấu dốt các loại…mục đích không gì khác ngoài tỏ thế đứng cao hơn với độc giả phổ thông; thơ khó hiểu chính danh muốn thám hiểm vùng tối, khu vực hãy còn chưa được khai vỡ của tâm hồn con người, thử nghiệm khả tính mới của thi ca hãy còn chưa quen thuộc với đại đa số công chúng độc giả.

Vậy, thơ để làm gì? Thơ có phải là nghệ thuật quá sang cả, quá đặc biệt chỉ dành cho con người đặc tuyển, người viết cao ngạo và người đọc nghiêm nghị? Đây là câu hỏi cốt tủy của hậu hiện đại.

3. Sau bao nỗi khó hiểu của hiện đại, hậu hiện đại làm gì?

Có thể nói, tiền tố DE (giải) minh giải tất cả khía cạnh của hậu hiện đại: trong sống, từ lối nghĩ cho đến ứng xử hay hành động; trong văn chương, từ thủ pháp cho đến giọng điệu… Các nhà thơ hậu hiện đại Việt quyết kéo thơ từ bàn thơ xuống với đời thường, đánh tan sự ngạo mạn “độc sáng” của chủ nghĩa hiện đại. Tất cả đều đã được nói rồi, nên – chả có gì gọi là độc sáng cả! Và thơ, chỉ là bộ môn nghệ thuật đứng ngang hàng với bộ môn nghệ thuật khác, xen lẫn cùng bao loại hàng tiêu dùng khác giữa cõi người, chứ không là sản phẩm đặc biệt gì; nó có thể tồn tại bằng nhiều dạng thức chứ không riêng gì trên trang báo hay tập sách; ngôn ngữ hay hình ảnh cũng thế, không có ngôn từ đầy thi tính hay hình ảnh cao sang như thứ đặc sản dành riêng cho thơ, mà tất cả đều bình đẳng dưới ánh Mặt trời. Cả nhà thơ, là kẻ “chế tạo” ra thơ, cũng bình thường như mọi người giữa đời thường, chứ không là trích tiên, thiên tài hay kẻ sinh nhầm thế kỉ gì gì cả.

Đấy là quan điểm mới, lạ… và, cần thiết, như một phản ứng với sự “làm vần” dễ dãi, hay nỗi khó hiểu đầy ý đồ của các nhà thơ hôm nay. Giải tán sự tối nghĩa và khó hiểu của thơ “hiện đại” Việt, hậu hiện đại đã làm gì?

Mươi năm qua, tiếp nhận hậu hiện đại thế giới, các nhà thơ Việt Nam đã có những sáng tác khá đặc thù – đặc thù hậu hiện đại Việt Nam. Điểm qua vài thủ pháp chính.

Thơ thì phải có chất thơ, quan niệm cũ xưa là vậy, hậu hiện đại nghĩ khác. Lấy chất liệu từ báo chí, nhà thơ hậu hiện đại không ngại sử dụng văn phong báo chí để làm nên bài thơ. Bản chất của nhật báo là được đọc rồi quên. Một thông tin gây xúc động đến đâu, nó cũng bị bỏ qua để buổi sáng hôm sau tiếp nhận thông tin nóng hổi khác. Nhà thơ “xài lại” tin để buộc độc giả đọc lại và suy ngẫm sự thể.

Về ngôn ngữ, tứ thơ đẹp đi liền ngôn từ đẹp để tạo nên bài thơ nên… thơ. Hậu hiện đại phi tâm hóa ngôn từ bằng cách cố tình sử dụng ngôn ngữ thông tục đến thô tục đậm đặc trong thơ, vô phân biệt ngôn từ sang trọng với thấp hèn, linh thánh với trần tục.

Không chỉ mỗi ngôn ngữ, nhà thơ hậu hiện đại không ngại sử dụng các chất liệu khác để làm thơ. Hàng loạt thơ cụ thể concrete poetry độc đáo của Lê Văn Tài đã làm được điều đó: màu sắc và hình khối lấn phần chữ, đưa thơ gần với họa. Ở phía khác, thơ hình họa pictographic poems hậu hiện đại như “Em đi qua đời tôi” của Ngu Yên, bài thơ chỉ có mỗi chữ NỮ được xếp hình đầy sáng tạo. Hay “Quà tặng của Quỷ sứ” của Trần Wũ Khang khác hẳn loại hình này thuở chủ nghĩa hiện đại (Apollinaire, Cunnings chẳng hạn). Nó hết là trò chơi thuần kĩ thuật, mà nội dung thơ cư trú ngay trong hình thức lạ của bài thơ.

“Tôi là cột điện” là bài thơ [trình diễn] thành công của Lê Anh Hoài. Cột điện trong đời sống ngày thường án ngữ tại các thành phố chịu đựng mênh mông nỗi đời và nỗi người. Hành động nghệ thuật này mời gọi diễn giải mang tính xã hội và nghệ thuật, rộng và sâu. Thơ hiện đại gắn liền với thể thơ tự do không vần nhịp chỏi, hậu hiện đại thì khác. Các nhà thơ hậu hiện đại có thể sử dụng ngay các thể thơ truyền thống, năm chữ hay tám chữ… để làm thơ. Như Nguyễn Thế Hoàng Linh đã làm.

Lâu nay thơ cứ kì khu, kì khu đến giả tạo. “Khóc Văn Cao” của Bùi Chát dùng đúng sáu âm để cười vào thứ văn chương [cũng như tình cảm và lối hành xử] giả tạo đó. Như là một cách dùng độc trị độc, khiến người đọc tự phản tỉnh với nỗi giả tạo kia. Không dừng lại ở đó, khi lâu nay các nhà thơ hiện đại nghĩ thơ phải là độc sáng, làm ra cái gì chưa hề có trước đó, Bùi Chát nghĩ khác: mỗi sáng tác là mỗi vi phạm bản quyền. Nhà thơ này làm nguyên tập thơ nghĩa Xin lỗi chịu hổng nổi bằng cách nhại các bài thơ nổi tiếng khác.

Thơ tân hình thức sử dụng thi pháp đời thường, dùng ngôn từ trong đời sống thường nhật để kể các câu chuyện của người đời thường. Tất cả đều gần gũi và rất dễ hiểu, dễ tiếp nhận. Thơ hậu hiện đại và tân hình thức Việt vô phân biệt đề tài cao cấp hay thấp cấp, ngôn ngữ thi tính hay ngôn từ bình dân, thi ảnh kì khu hay dung dị, thể thơ truyền thống hay “hiện đại”,… nhưng không vì thế mà thơ hậu hiện đại tự biến mình thành sản phẩm văn nghệ thứ cấp dành cho giới bình dân phổ thông.

Như vậy, thơ hậu hiện đại Việt có bài thơ hay câu thơ nào hay? Nhà thơ hậu hiện đại nghĩ khác: họ bắt gặp một ý niệm và triển khai tối đa ý niệm tìm thấy. Như Lê Vĩnh Tài đã làm như thế với Thơ hỏi thơ (2008). Chớ mong tìm thấy câu, đoạn thơ “hay” ở đó. Hay của hậu hiện đại là hay của cả khối, của toàn cục.

Hỏi, hậu hiện đại có thể làm nên cuộc cách mạng văn học tại Việt Nam?

Tác giả

(Visited 7 times, 1 visits today)