Người mê thuyền Việt

Biết chúng tôi đã đến Seattle,John gọi điện bảo sẽ đưa xe đón. Hiểu nhiệt tình của John ,nhưng chúng tôi nói sẽ tự đi thăm  bằng phương tiện công cộng vì biết rằng vào ngày nghỉ, hai vợ chồng John còn lo thăm bà mẹ vợ đang bệnh, một phần chúng tôi cũng muốn tự mình dùng xe bus và phà để “khám phá” cả một vùng biển đảo mênh mông Đông Bắc Mỹ. Và thế là, sau hơn ba  giờ rong ruổi gần hai trăm cây số, với hai lần chuyển xe, vượt qua các khu rừng tuyệt đẹp ven biển, ngắm nhìn không biết mỏi  những chiếc thuyền buồm đậu san sát ven bờ, những chiếc hàng không mẫu hạm khổng lồ chuẩn bị tháo dỡ, chúng tôi đã tới Port Townsend, nơi trú ngụ của John Doney và Donna, một gia đình người Mỹ mê thuyền Việt.

Thuyền Việt và các bạn quốc tế
Thực ra, John không phải là người nước ngoài duy nhất chú ý tới các con thuyền của dân tộc ta. Vẻ độc đáo, thiết thực, đầy sáng tạo của các phương tiện dùng để vận chuyển, đánh bắt cá của các cư dân suốt dọc ven biển Nam – Bắc đã là đề tài ghi nhận, bình luận của nhiều nhà thám hiểm, hàng hải thuộc nhiều nước như Pháp, Bồ Đào Nha, Anh, Trung Hoa, Mỹ từ những thế kỷ xa xưa. Còn nhớ, trong cuộc gặp nhà văn chuyên viết về biển người Nga Lev Skriaghin tại Moskva mùa xuân năm 1991, ông già gốc Do Thái có đưa tôi xem bài viết của mình giới thiệu các con thuyền độc đáo của cư dân Đông Nam Á trên tạp chí Kỹ Thuật cho Thanh Niên. Hình chiếc gai-bao (tiếng Nga гай баy) nổi bật với chiếc đòn ngang giữ cân bằng! Tôi nói với Lev, gai-bao của ông chính là chiếc ghe bầu miền Trung Việt Nam, được phiên âm trong Từ điển Tàu thuyền toàn thế giới của tác giả người Anh Rene-de-Kerchove mà hầu hết các nhà nghiên cứu đều sử dụng, trong đó có Lev. Bản thân Rene lại dựa trên những công trình nghiên cứu của các tác giả Pháp, đặc biệt là Pierre Paris và J.B.Pietri. Và Lev cũng rất phấn khích khi thấy chiếc ghe bầu của chúng ta được Paris dùng làm hình bìa cho cuốn sách khảo cứu độc đáo của mình “Esquisse d’une ethnographie navale des peuples annamites – Phác thảo nghiên cứu dân tộc học về hàng hải của dân Việt Nam”. Có thể kể ra cả một “trường phái Pháp” nghiên cứu về thuyền bè và sinh hoạt sông nước của dân tộc ta bắt đầu từ J.M.Dayot,Chaigneau… những người đã giúp đỡ về thủy quân cho Gia Long, những P.Paris, J.B.Pietri, Kiến trúc sư J.Y. Claeys trong những năm 30,40 của thế kỷ 20 cho tới bà Francoise Aubaile với cuốn “Bois et Bateaux du Vietnam” do Sallenave xuất bản năm 1987 tại Paris và biết bao các luận văn nghiên cứu sinh còn đang được làm dở dang!


Tại làng mộc Kim Bồng Hội An, Quảng Nam vào tháng Hai năm 2006 , John chăm chú xem các nghệ nhân làm thúng chài và thuyền mộc dân gian.

Bìa cuốn sách” Phác thảo dân tộc học hàng hải về người Việt Nam” của. Paris 

Sau người Pháp, người Mỹ ồ ạt tới nước ta trong cuộc chiến vừa qua, và John Doney cũng là một trong số đó. Sinh trưởng tại Seattle trong một gia đình nhiều đời là hải quân, John thường xuyên di chuyển nơi cư trú theo cha mẹ. Sau khi tốt nghiệp trung học tại Puerto Rico, John quay về Seattle hoàn thành chương trình học vấn  tại Đại học Washington và bước vào cuộc đời quân ngũ với những con tàu. Đầu thập kỷ 60, chàng sĩ quan hải quân John đóng quân tại Đà Nẵng với một nhiệm vụ cụ thể: Chống cuộc xâm nhập của Bắc Việt Nam trong chiến dịch mà người Mỹ gọi tên là “Market Time”, tức chống Đường mòn Hồ Chí Minh trên Biển. Ngoài tàu bè, vũ khí, radar tối tân trải dọc ven biển, hệ Loran-C, tức hệ hàng hải tốt nhất thời bấy giờ, người Mỹ còn soạn thảo một bộ sách dày, bìa cứng bằng ba thứ tiếng Anh, Việt, Thái có cái tên là “Thanh thư Tàu thuyền Cận duyên Nam Việt Nam” (tên tiếng Anh Blue Book of Coastal Vessels, South Vietnam). Để soạn thảo cuốn sách, Trung tâm Thông tin về Các cuộc Xung đột tại các Vùng xa xôi ( Remote Area Conflict Information Center) tại Columbus, bang Ohio đã không tiếc tiền bạc công sức, chụp hàng vạn bức ảnh về các loại thuyền, trong đó có nhiều bức ảnh chụp từ máy bay khá tốn kém, đo đạc thực địa, ghi chép hỏi han, tức là thực hiện một cuộc nghiên cứu “dân tộc học phục vụ chiến tranh” nhưng ngay trong lời nói đầu bộ sách,những người soạn thảo công trình này phải thừa nhận là chủ yếu dựa và công trình “Thuyền buồm ở Đông Dương –Voiliers d’Indochine” của Pietri. Và coi cuốn sách của ông Giám đốc Nha Ngư nghiệp Đông Dương thuộc Pháp này là cuốn “Kinh Thánh” (Bible) của những ai muốn nghiên cứu về thuyền bè Việt Nam. Tại trang 79-93 của Thanh thư có mục “Detection Clues for Stop and Search Operation”- các dấu hiệu để chặn lại và kiểm tra và trang 95-111 có mục “Registration/Identification of Vessels and Crew”- đăng ký hay nhận dạng tàu và thuyền viên, tức là theo người Mỹ đã trang bị một công cụ theo ý họ là đã rất tỉ mỉ với tiêu chuẩn cụ thể để có thể tiêu diệt mọi tàu thuyền giả dạng xâm nhập. Trong khi đó, khác với “Thanh thư”, cuốn “Thuyền buồm” được Pietri viết lên với tấm lòng say đắm vẻ đẹp của ghe bầu, ghe nang, dọc bờ biển nước ta. Và đặc sắc nhất là tất cả các hình minh họa, hình kỹ thuật các chi tiết của thuyền như bánh lái, buồm… đều được ông vẽ bằng tay chứ không viện tới kỹ thuật chụp ảnh đắt tiền như người Mỹ! Cũng như các vũ khí đắt tiền khác, cuốn “Thanh thư” đó đã trở nên vô tác dụng trước quyết tâm thống nhất đất nước của chúng ta: Chính trong những ngày đầu nhừng năm 60 đó, một chiếc thuyền Gò Công đã được đưa ra để nghiên cứu và những con tàu không số đã ra đời!

Quỹ Thuyền gỗ Việt Nam

Sau chiến tranh Việt Nam, John còn đóng quân tại châu Âu. Trở về với đời thường, cùng với vợ và các bạn vùng Đông Bắc lập ra chương trình “Kid-First-Vì Trẻ em” nhằm giúp đỡ các trẻ em khuyết tật và nạn nhân chiến tranh vùng Đông Hà, Quảng Trị. Hành trình trở lại chiến trường xưa làm cho John trở lại với những chiếc thuyền Việt, nhưng trước kia là việc anh phải đọc Thanh thư để “tìm và diệt”, thì ngày nay, đó là cuốn Thuyền buồm mà anh đã biết từ hàng chục năm về trước. John quyết định nghiên cứu thuyền Việt Nam có bài bản, và anh đã cùng Stephanie Dumont người Pháp chuyển ngữ cuốn sách sang tiếng Anh, cho phát hành rộng rãi. Tất cả tiền thu được đều cho vào Quỹ Thuyền Gỗ Việt Nam “Vietnam Wooden Boat Foundation” mà anh là người sáng lập. Mục tiêu của Quỹ, như thông báo rõ ràng trên mọi phương tiện thông tin đại chúng là một tổ chức được lập theo điều 502 (c), không vụ lợi, toàn bộ chương trình chỉ nhằm “gìn giữ quá khứ hàng hải của Việt Nam” (preserve Vietnam’s maritime past). Trong văn phòng của vợ chồng John và Donna, phần ngoài dành cho công việc kinh doanh địa ốc của gia đình mà toàn bộ trang trí mỹ thuật đều do một tay Donna quán xuyến, phần trong là dành cho các hoạt động của Quỹ. Chúng tôi ngồi ngắm nhìn những bức tranh thuyền bè Việt Nam mà John đã sưu tập từ nhiêu nguồn khác nhau, trong đó có những bức chụp từ cuối thế kỷ 19. John cho tôi xem quá trình theo dõi việc đóng chiếc ghe nốôc tại Huế ra sao và anh đã đưa được nốôc về tận Port Townsend như thế nào. Chẳng là vùng này xưa kia nổi tiếng là nơi làm ra các con thuyền canoe, kayak tinh xảo, nhưng quá khứ hào hùng chỉ là một thứ để ngắm nhìn nếu không có một loạt các nghiên cứu, đề xuất mang tính doanh nghiệp: Tại sao không biến nơi này thành một trung tâm đóng kayak trong thời kỳ hiện đại? Tại sao không tổ chức các lễ hội đóng thuyền gắn liền với du lịch và các công tác nghiên cứu? Thế là vùng này trở thành trung tâm thuyền vùng Đông Bắc nhờ từ rất nhiều sáng kiến cá nhân. Vào các ngày lễ hội, chúng ta có thể thấy các thuyền kayak bằng mọi vật liệu được đóng ra sao: Từ khâu làm khung tới bọc vỏ ngoài với thuyền bằng vải hay da thú, từ khâu dựng khung, chạy ván với thuyền gỗ mà mọi người đều có thể cùng tham dự và thi vui có thưởng. Một trường dạy đóng thuyền có tên là “Trường Đóng thuyền vùng Đông Bắc” mà John cũng có tên trong Ban điều hành. Chính trên cái “nền” đó, chiếc nốôc Huế được triển lãm tại Hội Chợ này đã được mọi người quan tâm đặc biệt: Qua băng video mà John ghi chép quá trình đóng tại Việt Nam, người xem trông hiện vật, so sánh với cách đóng thuyền của họ, tìm ra cái hay, cái dở, tức là có một cuộc kháo sát “dân tộc học so sánh “trong đóng thuyền!  John dự kiến sẽ đóng thêm một chiếc ghe nang Đà Nẵng và cũng sẽ đưa về Mỹ triển lãm như vậy. Chúng tôi bàn về việc chuyển ngữ cuốn Thuyền buồm sang tiếng Việt cho một đối tượng cần đọc nhất cuốn sách này. Nếu bản tiếng Anh đã khó thì bản tiếng Việt lại càng khó hơn, vì nhiều thuật ngữ Việt cũ xưa về thuyền buồm đã biến mất cùng với các hiện vật, vì những thuật ngữ như “xiếm mũi, chạy pha chằng, chạy cánh cào… của hàng hải dân gian lại khá xa lạ với nhiều nhà kỹ thuật hiện nay, chỉ quen với sách vở “Tây học”!Việc chuyển ngữ thực sự phải là một cuộc nghiên cứu nho nhỏ về tàu thuyền dân tộc chứ không đơn giản chỉ dịch từ tiếng Pháp hay Anh sang tiếng Việt. Nhưng dù khó, chúng tôi cũng quyết tâm hoàn thành công việc này trong năm 2009! Tôi cũng kể cho John nghe câu chuyện làm quen với cuốn Thuyền buồm của mình như thế nào. Đó là vào những năm cuối thập kỷ 60, tại Thư viện Quốc gia Hà Nội, họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung đã chỉ cho cậu sinh viên vừa ra trường cuốn sách này khi biết tôi quan tâm tới thuyền dân gian. Học về tàu thủy nhưng trở về công tác tại Cục Cơ khí Bộ Giao thông, lúc này tôi được biết toàn cơ quan đang quan tâm tới việc đóng thuyền. Các đề án cụ thể được giữ tuyệt mật, sau này tôi mới biết con thuyền Gò Công được phân tích và một tổ kỹ sư do Trịnh Xương đứng đầu cùng với Lương Văn Triết, Đào Vũ Hùng, Cao Bút đã thiết kế chiếc thuyền “100 tấn” bằng vỏ thép phục vụ vận chuyển Bắc – Nam giả danh như những chiếc thuyền đánh cá. Công việc được Cục trưởng Ngô Văn Năm chỉ đạo trực tiếp và làm việc thẳng với các lãnh đạo cấp cao như Phạm Hùng, Phan Trọng Tuệ…Từ chiếc thuyền “100 tấn”, thiết kế được cải tiến nhiều lần và được đóng hàng loạt tại các nhà máy như Xưởng 1, Xưởng 3, Bạch Đằng và cả tại Quảng Châu Trung Quốc bổ sung vào đội tàu không số trên đường mòn…
…Trò chuyện tới khuya, chúng tôi trở về căn nhà của John trong khu rừng ven biển. Trong phòng khách của  “sói biển”, câu chuyện vẫn không dứt ra được quanh vấn đề làm sao có thể lưu giữ những gì còn sót lại của quá khứ thuyền bè. Cơ giới hóa mau chóng đã làm thay đổi diện mạo của tàu thuyền, một điều mà Pietri cũng đã thấy ngay từ những năm 40 của thế kỷ trước trong khi viết cuốn “Thuyền buồm ở Đông Dương”. Những bí quyết may buồm cánh dơi của nghệ nhân đảo Hà Nam, Phong Cốc, Yên Hưng, Quảng Ninh, bó mảng luồng tre tại Sầm Sơn, Thanh Hóa, làm ghe bầu tại Quảng Nam, Bình Định… sẽ ngày một mất đi nếu không có biện pháp ghi chép lưu giữ. Tại Seattle, niềm say mê thuyền Việt của John đã lôi cuốn được nhiều bạn bè: John giới thiệu với tôi cuốn sách ảnh “Thuyền gỗ Việt Nam” của một tác giả nhiếp ảnh nghiệp dư, anh Ken Preston đã dành hai năm 2005-2006 dùng xe mô tô Minsk rong ruổi suốt từ Bắc vào Nam để chụp hàng nghìn bức ảnh. Những việc làm cụ thể của các bạn đã làm chúng tôi day dứt, hình như công việc lưu giữ di sản tàu thuyền của chúng ta thực hiện chưa được là bao, mà tàu thuyền là cái cốt lõi của công cuộc chinh phục biển, giữ vững chủ quyền của dân tộc ta trên một lãnh thổ mà hai phần ba là biển!

Tác giả

(Visited 4 times, 1 visits today)