Nhạc đỏ, đoàn văn công và Jazz trong thời đại mới
Bốn mươi năm sau Đổi mới, việc khám phá mối quan hệ giữa Nhạc đỏ, Đoàn văn công, và Jazz mở ra cho chúng ta thấy giá trị góp phần định hình bản sắc văn hóa Việt Nam hiện đại của Nhạc đỏ.

Ở Việt Nam, nhạc cách mạng, đôi khi được gọi là Nhạc ái quốc, hay còn được biết đến nhiều hơn với tên Nhạc đỏ, không đơn thuần là một thứ âm nhạc mang tính tuyên truyền. Nó còn là một thứ gì đó to lớn và ý nghĩa hơn thế. Tôi tin chắc rằng bất kỳ nghiên cứu dân tộc học âm nhạc và lịch sử văn hóa nào về Nhạc đỏ cũng sẽ đồng ý rằng đây không chỉ là nhạc nền của một thế hệ người Việt, mà còn là một thành phần không thể thiếu trong bức tranh lịch sử-văn hóa định hình bản sắc văn hóa Việt Nam hiện đại. Nhạc đỏ được tạo nên từ trải nghiệm thực tế của các nhạc sĩ tại chiến trường và trong cách mạng, từ những cuộc gặp gỡ văn hóa trên khắp cảnh quan đa dạng của Việt Nam, từ di sản âm nhạc của các vùng miền và dân tộc, từ tinh thần của truyền thống văn học, từ các hình thức, lý thuyết và kỹ thuật sáng tác âm nhạc hiện đại, từ những câu chuyện về sự kiên cường và hy sinh của những con người bình thường, và từ tài năng nở rộ của các cá nhân. Những đơn vị đoàn văn công quân đội và các đoàn ca múa dân sự đã mang âm nhạc này đến người nghe, cả các chiến sĩ và nhân dân trên khắp đất nước thông qua sóng phát thanh và đặc biệt là các buổi biểu diễn trực tiếp.
Đó là điểm bắt đầu đưa Nhạc đỏ trở thành nhạc nền của thời đại, khi đồng hành với người dân Việt Nam trong cuộc sống thường nhật, khích lệ họ hướng tới mục tiêu giải phóng, thống nhất, và hòa bình.
Nhạc đỏ không chỉ là nhạc nền của một thế hệ người Việt, mà còn là một thành phần không thể thiếu trong bức tranh lịch sử – văn hóa định hình bản sắc văn hóa Việt Nam hiện đại.
Đoàn văn công
Đoàn văn công là cái tên chung chỉ các đoàn nghệ thuật biểu diễn thuộc quân đội. Trong những năm chiến tranh, nhiều đoàn được gọi theo tên đơn vị quân đội, như Đoàn văn công Tổng cục Chính trị, nhưng sau chiến tranh được đổi tên thành Đoàn Ca múa nhạc Tổng cục Chính trị, và sau này là Nhà hát Ca múa nhạc Quân đội. Có thể truy về nguồn gốc của đoàn văn công là từ năm 1947, khi Chính phủ Việt Minh rút về Việt Bắc để chuẩn bị đối phó với âm mưu tái chiếm Việt Nam của thực dân Pháp sau Cách mạng Tháng Tám. Nhận thấy “văn hóa” là một mặt trận quan trọng, Bộ Tư lệnh Chiến khu 1 và Phòng Chính trị ra lệnh thành lập Đội Tuyên truyền Văn hóa, Văn nghệ thuộc Phòng Chính trị Chiến khu 1 vào ngày 31/10/1947. Đơn vị này tổ chức và biểu diễn các chương trình ca múa nhạc, kịch hát, cũng như xuất bản các tài liệu in ấn để khích lệ tinh thần bộ đội và nhân dân trong cuộc chiến chống Pháp.
Không lâu sau, quân đội bắt đầu tổ chức các đơn vị tương tự ở các chiến khu khác và thành lập các đoàn văn công ở cấp sư đoàn và trung đoàn để phục vụ trực tiếp cho các lực lượng tại mặt trận. Các đoàn này được đặt tên theo đơn vị chỉ huy, như Đoàn văn công Sư đoàn 312, 675, 45, và Đoàn văn công Trung đoàn 148. Đầu năm 1951, quân đội điều động các nghệ sĩ hàng đầu từ các đơn vị để thành lập Đoàn văn công Tổng cục Chính trị – đoàn văn công chủ lực. Khoảng một trăm nghệ sĩ, bao gồm nhạc sĩ Hoàng Hiệp, đã chuyển ra Bắc để thành lập Đoàn văn công Nam Bộ. Năm 1957, tất cả các đoàn văn công được tái tổ chức và tập trung dưới các quân khu khi các vùng quân sự được sắp xếp lại. Từ những ngày đầu trong kháng chiến chống Pháp, các đoàn văn công đã trở thành bệ phóng, và thậm chí sinh kế, cho nhiều nghệ sĩ. Họ tham gia các đội tuyên truyền, viết truyền đơn và bài báo, viết kịch bản và diễn xuất, sáng tác và đọc thơ, thiết kế vũ đạo và biểu diễn múa, sáng tác nhạc và lời, và trình diễn các bài hát trực tiếp hoặc trên sóng phát thanh. Tên tuổi của họ được biết đến từ những năm 1940, như Hoàng Cầm (nhà thơ), Nguyễn Đình Thi (nhà thơ), Văn Cao (nhạc sĩ), Hoàng Quý (nhạc sĩ), Lưu Hữu Phước (nhạc sĩ), Đỗ Nhuận (nhạc sĩ), Nguyễn Xuân Khoát (nhạc sĩ), Lương Ngọc Trác (nhạc sĩ)… Nhiều người trong số họ sau đó tiếp tục dẫn dắt thành lập các đoàn văn công, ví dụ, Hoàng Cầm là Giám đốc sáng lập của Đội Tuyên truyền Văn hóa, Văn nghệ Chiến khu 1 (sau trở thành Đoàn văn công Quân khu Việt Bắc) và Đoàn văn công Tổng cục Chính trị; Nguyễn Xuân Khoát dẫn dắt Đội văn công Trường Lục quân tại Vân Nam; Đỗ Nhuận phục vụ trong nhiều Đội Tuyên truyền trước khi lãnh đạo Đoàn văn công Tổng Cục Chính trị. Chỉ cần kiểm tra danh sách các nhạc sĩ phục vụ trong các đoàn văn công sẽ thấy một danh sách dài các nhà soạn nhạc, ca sĩ, nghệ sĩ accordion, nghệ sĩ đàn dây, nghệ sĩ kèn, và nghệ sĩ nhạc cụ truyền thống nổi bật trong các thập kỷ trước Đổi mới. Không phải đoàn nào cũng có những “ngôi sao” này nhưng các đoàn nào cũng đi vào chiến trường, mang Nhạc đỏ đến với các chiến sĩ cũng như dân chúng.

Đoàn văn công tuyển dụng nhiều nhạc sĩ nghiệp dư tài năng và thanh niên đã học một chút âm nhạc trước khi nhập ngũ. Huy Luân, nghệ sĩ accordion nổi tiếng và chỉ huy lâu năm của Đoàn văn công Tổng cục Chính trị, đã học chơi accordion trước khi nhập ngũ và được điều đến Trường Lục quân tại Vân Nam và được các nhạc sĩ quân đội của Trung Quốc truyền thụ thêm. Nhạc sĩ nổi tiếng Doãn Nho, người bắt đầu học violin từ năm mười tuổi, gia nhập Đội Thiếu niên cứu quốc, sau đó trở thành thành viên của Đội Tuyên truyền xung phong tại Bắc Giang. Giống như Huy Luân, ông được điều đến Trường Lục quân tại Vân Nam và trở thành thành viên của Đội Văn công Trường Lục quân vào năm 1951 rồi được điều động đến Đoàn văn công Tổng cục Chính trị sau chiến tranh. PGS.TS, nghệ sĩ accordion và người thiết kế chương trình đào tạo jazz tại Nhạc viện Hà Nội, Lưu Quang Minh, học chơi accordion tại Hải Phòng trước khi nhập ngũ và phục vụ trong đơn vị chiến đấu, tham gia trận Khe Sanh năm 1968. Được Huy Luân phát hiện tài năng trong một buổi biểu diễn của Đoàn văn công Tổng cục Chính trị, ông được chuyển sang Đoàn văn công Trường Sơn và lưu diễn khắp các đơn vị dọc đường mòn Hồ Chí Minh. Họ đều là những cái tên nổi bật ban đầu tham gia các đoàn văn công, dù mới là nhạc sĩ nghiệp dư hoặc ở giai đoạn đầu sự nghiệp.
Thời gian đã lùi xa, những câu chuyện cũ nhiều khi thành quá vãng. Ở Việt Nam, giờ đây ít người biết đến các đoàn văn công, thậm chí nếu biết đôi chút thì vẫn chỉ coi đó là những nhóm biểu diễn âm nhạc có chất lượng khiêm tốn và mang tính tuyên truyền là chính. Nhưng đặt các đoàn văn công này vào bối cảnh Việt Nam thời kỳ đó, có thể thấy vai trò nền tảng trong đào tạo âm nhạc. Trước khi Trường Âm nhạc Việt Nam (1956), Trường Văn hóa Nghệ thuật Quân đội (1955), và Trường Văn hóa Nghệ thuật Hà Nội (1967) được thành lập, ở miền Bắc không có nhiều nhạc sĩ chuyên nghiệp. Hầu hết các nhạc sĩ trong các đoàn văn công là nghiệp dư, nhưng trong các đoàn này, họ chơi nhạc như một nghề toàn thời gian và nhận được giáo dục âm nhạc chính quy cũng như đào tạo chuyên nghiệp. Từ đầu thập niên 1950 đến đầu thập niên 1970, các nhạc sĩ trong đoàn văn công được các nhạc sĩ chuyên nghiệp từ Trung Quốc, Nga, và các nước Đông Âu khác đào tạo. Sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, nhiều nhạc sĩ được cử đi học tại Trường Văn hóa Nghệ thuật Quân đội. Những người xuất sắc nhất được gửi đến Nhạc viện Quốc gia mới thành lập để theo học các chương trình chính quy, và một số được gửi ra nước ngoài học tại các nhạc viện danh tiếng ở Trung Quốc, Liên Xô, và các nước Đông Âu khác.
Cho đến giữa thập niên 1980, các đơn vị đoàn văn công quân đội, cùng với những đoàn ca múa dân sự được thành lập là xương sống của nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam.
Cho đến giữa thập niên 1980, các đơn vị đoàn văn công quân đội, cùng với những đoàn ca múa dân sự được thành lập là xương sống của nền âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam. Các nhạc sĩ tên tuổi đã chọn làm việc tại các đơn vị này còn những nhạc sĩ trẻ được đào tạo tại chỗ và chính quy tại đoàn văn công để trở thành nhạc sĩ chuyên nghiệp. Như tôi đã đề cập trước đó, có sự khác biệt rõ rệt giữa nhạc sĩ, nhạc sĩ chuyên nghiệp, và nghệ sĩ ở Việt Nam, đặc biệt trong Thời Bao cấp. Để được gọi là nhạc sĩ, một người được đồng nghiệp và người nghe công nhận là có tài năng, kỹ năng biểu diễn hoặc sáng tác. Tuy nhiên, họ có thể không làm việc toàn thời gian tại một tổ chức nghệ thuật. Để được gọi là nhạc sĩ chuyên nghiệp, người đó phải làm việc toàn thời gian tại một cơ quan nghệ thuật, như đoàn văn công, đoàn ca múa, các nhóm nghệ thuật truyền thống như đoàn cải lương, đoàn xiếc, hoặc Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia. Để đủ điều kiện làm việc tại các cơ quan này, một người phải trải qua đào tạo chính quy hoặc “học tại chức” tại các cơ sở đào tạo nghệ thuật để lấy bằng nghề, đặc biệt nếu muốn được hưởng mức lương cao hơn. Như Ngô Minh viết trong hồi ký về đời sống thời Thời Bao cấp:
Chỉ trong thời Bao cấp, các nghệ sĩ mới có thể biểu diễn mà không lo đói. Nhà nước có hàng trăm loại tem phiếu để cung cấp nhu cầu hàng ngày cho mọi người.
Các nhạc sĩ chuyên nghiệp được đào tạo và nuôi dưỡng trong đoàn văn công và đoàn ca múa dưới sự quản lý của nhà nước đã mở ra một kỷ nguyên mới của tân nhạc, lan tỏa đến mọi góc của miền Bắc, kỷ nguyên của nhạc đỏ.
Biểu diễn nhạc đỏ
Chơi nhạc cho đoàn văn công không phải là việc dễ dàng, đặc biệt trong những năm chiến tranh và Thời Bao cấp. Là thành viên của đoàn văn công, trước tiên phải là một người lính, sau đó mới là một nghệ sĩ, nghĩa là họ phải học cách sử dụng súng trường, dựng lều, đào hầm, và thực hiện các hoạt động tác chiến cơ bản, sau đó tham gia các chiến dịch quân sự bằng cách biểu diễn cho binh sĩ ở tiền tuyến và các khu vực tập kết. Điều này có nghĩa là mỗi người mang ba lô 20 kg chứa các nhu yếu phẩm tiêu chuẩn, đồng thời mang theo nhạc cụ, trang phục biểu diễn, và đạo cụ sân khấu, đi bộ đường dài qua những ngọn đồi rừng rậm và vượt sông khi không có phương tiện vận chuyển. Trong chiến tranh, sân khấu ở tiền tuyến có thể chỉ là một khoảng đất trống trong rừng với lưới ngụy trang che phía trên. Ở các khu vực tập kết, binh sĩ giúp đoàn văn công dựng sân khấu khi biểu diễn cho lượng khán giả lớn hơn. Thường thì, mỗi đoàn văn công được chia thành các nhóm biểu diễn nhỏ, gọi là Đội Xung kích, để phục vụ các đơn vị quân đội rải rác ở tiền tuyến. Trong kháng chiến, một số nhóm nhỏ này chỉ gồm ba đến bốn nghệ sĩ, bao gồm một ca sĩ, một nghệ sĩ accordion, một nghệ sĩ violin hoặc đàn nhị, và một diễn viên hoặc vũ công. Khán giả có thể chỉ là một nhóm ba binh sĩ đóng tại một tiền đồn trên đỉnh đồi. Trong Chiến dịch Trần Đình (Điện Biên Phủ), quân đội huy động nhiều đơn vị đoàn văn công, tiến vào khu vực này theo từng nhóm nhỏ qua những ngọn đồi rừng rậm. Trong chiến dịch này, Đỗ Nhuận sáng tác “Hành quân xa,” “Chiến thắng Him Lam,” Nguyễn Thành sáng tác “Qua miền Tây Bắc,” và Hoàng Vân sáng tác “Hò kéo pháo,” trở thành những giai điệu nổi tiếng từ Điện Biên Phủ. Các đơn vị này không chỉ biểu diễn cho quân đội mà còn nhằm huy động sự ủng hộ của các dân tộc thiểu số ở vùng Tây Bắc. Trong và sau chiến tranh, các đoàn văn công cũng tham gia nhiều chiến dịch tiễu phỉ ở các vùng núi Việt Bắc và Tây Bắc. Đội văn công Trung đoàn 148 mất phần lớn thành viên trong một cuộc tấn công bất ngờ của phỉ vào ban đêm tại biên giới Nàn Xa, Xín Mần, Hà Giang năm 1952. Sự mất mát và hy sinh của các nghệ sĩ cũng tiếp tục trong đạn bom của kháng chiến chống Mỹ, điều mà trong hồi ký của nhà văn Nguyên Ngọc, “Dọc đường 2”, cũng nhắc đến. Sự hi sinh củea nhạc sĩ Văn Định, mới ở miền Bắc vào, do bị trúng bom, “Cũng là bom B57. Cùng một quả bom ấy, chúng tôi bị quét sạch một nửa đoàn văn công Quảng Đà”.

Ngoài việc phục vụ nhiệm vụ chính trị ở tiền tuyến, các đoàn văn công cũng biểu diễn ở hậu phương và các khu vực tập kết ở tiền tuyến.Việc biểu diễn và hòa mình vào đời sống các địa phương cũng đem lại một món quà vô giá cho các nhạc sĩ, nhà văn, và biên đạo múa của các đoàn văn công và đoàn ca múa, khi có thể hợp tác với các nghệ nhân địa phương để sáng tác các bài hát về con người và vùng đất, lấy cảm hứng từ các bài dân ca, điệu múa, và lễ hội địa phương, thậm chí sử dụng nhạc cụ địa phương trong biểu diễn. Danh mục âm nhạc của đoàn văn công chủ yếu gồm nhạc đỏ và nhạc cổ truyền và nhiều tác phẩm nhạc đỏ được đón nhận là kết quả của việc các nhạc sĩ Việt Nam “đi sâu vào quần chúng”. Thứ âm nhạc này thực sự là cuộc hội ngộ giữa các nghệ sĩ, người dân và cảnh sắc địa phương đa dạng của Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh và cách mạng.
Khi biểu diễn nhạc đỏ và trình diễn nhạc dân gian truyền thống, đoàn văn công cũng đóng vai trò quan trọng trong ngoại giao văn hóa thay mặt quân đội. Các đơn vị này thỉnh thoảng đón tiếp các phái đoàn nước ngoài đến thăm Việt Nam hoặc được cử ra nước ngoài để giao lưu văn hóa. Đoàn văn công Tổng cục Chính trị là đơn vị chính đảm nhận vai trò này, từng biểu diễn tại Trại Davis, gần sân bay Tân Sơn Nhất vào tháng 2/1973 sau khi Hiệp định Paris (tháng 1/1973) được ký kết, quy định thành lập Ban Liên hợp quân sự bốn bên và nơi đặt trụ sở của hai phái đoàn đại biểu quân sự của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để giám sát lệnh ngừng bắn và sự rút quân của Mỹ. Đoàn văn công Tây Bắc cũng được giao nhiệm vụ giúp bộ chỉ huy quân đội gắn kết tốt hơn với các dân tộc láng giềng ở bên kia biên giới Lào. Đoàn văn công Tây Bắc không chỉ biểu diễn ở vùng Đông Bắc Lào mà còn cung cấp đào tạo âm nhạc và nghệ thuật biểu diễn cho các đối tác Lào để xây dựng mối quan hệ xuyên biên giới vững mạnh. Nhạc sĩ Đàm Linh, giữ vị trí Đoàn phó Đoàn Tây Bắc trong thời gian dài, đã tiếp cận được những người dân tộc thiểu số ở Tây Bắc và qua biên giới Lào. Tương tự, Đoàn văn công Quân khu 1 trở thành Đoàn văn công Quân khu Việt Bắc năm 1957 sau khi Khu Tự trị Việt Bắc được thành lập năm 1956.
Một thời kỳ mới
Từ năm 1947, đoàn văn công đã mang tân nhạc hiện đại đến mọi góc của đất nước vào thời điểm mà tân nhạc, dù đã phổ biến ở các thành phố và thị trấn lớn, vẫn còn khá mới mẻ ở các làng quê. Hình thức bài hát hiện đại còn mới đối với phần lớn khán giả ở các tỉnh, đặc biệt ở các vùng núi. Nhiều người dân ở các tỉnh chưa quen với các nhạc cụ phương Tây như accordion. Thực tế, nhiều người chưa từng thấy các nhạc cụ này trước khi đoàn văn công đến. Trong khi radio đã trở thành công cụ truyền thông đại chúng hiệu quả của chính phủ và nguồn thông tin, âm nhạc cho người dân, phạm vi tiếp cận của nó vẫn còn hạn chế, đặc biệt ở các vùng sâu vùng xa. Chính các buổi biểu diễn trực tiếp của đoàn văn công và sự tương tác trực tiếp giữa nghệ sĩ và người dân địa phương đã thực sự giới thiệu tân nhạc hiện đại đến người dân ở các tỉnh. Quan trọng hơn, chính sự biểu diễn và tương tác trực tiếp đã giúp truyền tải thông điệp của nhạc đỏ đến cả binh sĩ và dân thường. Suzanne Ament, trong nghiên cứu về các đội âm nhạc được Liên Xô thành lập trong Thế chiến II, đã viết về hiệu quả của các buổi biểu diễn trực tiếp:
“Không chỉ các chương trình được biểu diễn trực tiếp trước mọi khán giả, mà cả nghệ sĩ và khán giả đều có thể nhìn thấy và trân trọng lẫn nhau. Họ có thể hiểu được những hy sinh mà mỗi người đã thực hiện để phục vụ nỗ lực chiến tranh theo cách riêng của mình. Một đội âm nhạc có thể tiếp cận ít người hơn một tờ báo hoặc một buổi hòa nhạc phát thanh trực tiếp, nhưng sự tương tác giữa binh sĩ hoặc công nhân và nghệ sĩ tạo ra những ký ức lâu dài, khơi dậy lòng dũng cảm, và chạm đến trái tim hơn bất kỳ phương tiện nào khác”.
Nhằm tạo ra con người xã hội chủ nghĩa mới, Việt Nam chú trọng nâng cao trình độ “giáo dục nghệ thuật và phát triển văn hóa”. Ủy ban trù bị thành lập Hội Nhạc sĩ Việt Nam thậm chí đã kêu gọi các nhạc sĩ đóng góp mọi cách để nâng cao trình độ âm nhạc của nhân dân và lưu ý các nhạc sĩ và khán giả cùng nhau tạo thành một cộng đồng âm nhạc hoàn chỉnh. Thậm chí, họ còn hình dung ngày người dân Việt Nam bình thường có khả năng ngồi thưởng thức một bản giao hưởng hoặc một vở opera. Bằng cách đi đến các vùng để biểu diễn, giới thiệu tân nhạc hiện đại dưới dạng các tác phẩm Nhạc đỏ được lấy cảm hứng từ văn hóa âm nhạc địa phương, đời sống thường nhật, các đoàn văn công thực sự đã hoàn thành trách nhiệm âm nhạc của mình.□
(Còn tiếp)
Thanh Nhàn dịch
—-
* TS Stan B.H. Tan-Tangbau, Viện Nghệ thuật Nanyang, Singapore, là tác giả cuốn “Playing Jazz in Socialist Vietnam: Quyền Văn Minh and Jazz in Hà Nội” lọt vào chung khảo The 2022 EuroSEAS Humanities Book Prize, ấn bản tiếng Việt “Chơi jazz ở Việt Nam: Quyền Văn Minh và nhạc Jazz Hà Nội” đoạt giải Sách hay quốc gia 2023
Bài đăng Tia Sáng số 16/2025